Tăng cường công tác khám, phát hiện các trường hợp mắc, nghi mắc bệnh đậu mùa khỉ; khi phát hiện phải liên hệ ngay với Trung tâm y tế trên địa bàn và CDC Hà Nội để phối hợp điều tra dịch tễ, thu thập bệnh phẩm và triển khai các biện pháp phòng, chống dịch. Tăng Nghi thức tế trải qua bốn giai đoạn: 1 Nghênh thần: chủ tế lễ 4 lễ. 2 Hiến lễ: dâng lễ 3 lần, mỗi lần chủ tế và bồi tế đều quỳ để hiến lễ, đọc văn tế (đọc chúc) 3 Ẩm phúc và thu tộ: Chủ tế nhận lộc thần linh ban. 4 Lễ tạ: Chủ tế lễ 4 lễ. Cách thức Phản ứng của Trung Quốc chắc chắn gây tiếng vang của những bài học kinh nghiệm trong SARS và là sự tôn vinh công việc mà Trung Quốc và các nước thu nhập thấp và trung bình khác đang làm, với sự giúp đỡ rất cần thiết của các đối tác quốc tế, trong vài thập kỷ qua STTTên cá nhân, tổ chức vi phạmĐịa chỉLoại hình sản xuất, kinh doanhHành vi vi phạmHình thức xử phạtHình thức xử phạt bổ sungBiện pháp khắc phục hậu quả1Bùi Hồng Lĩnh, chủ Cơ sở sản xuất bánh kẹo Thanh DungSN 27, ngõ 69, đường Lê Đại Hành, P.Thanh Bình, TP. Ninh BìnhSản xuất bánh nướng, bánh dẻo Sử Trong nghĩa hẹp thì nghi lễ là nghi thức hành lễ tụng niệm mang tính tín ngưỡng thờ phụng của một tôn giáo. Nghi lễ của Phật giáo thường đi đôi với nhạc (lễ - nhạc), tùy theo truyền thống văn hóa nghệ thuật của mỗi miền mà nghi lễ Phật giáo sẽ ảnh hưởng truyền Kính thưa quý vị, Nói đến khoa nghi chẩn tế âm linh cô hồn thì không thể không nói đến nghi lễ của Phật giáo.Nhiều nhà nghiên cứu tôn giáo trên thế giới đều đồng ý rằng một tôn giáo phải có đủ ba yếu tố: triết học, nghi lễ và thần thoại. Phật giáo là một tôn giáo nên Phật giáo cũng có đầy đủ ba Hệ thống chẩn đoán nha khoa thực hiện phân tích và xác định vùng bệnh nha khoa từ ảnh X-Quang răng hàm mặt của bệnh nhân nhanh chóng và chính xác kèm theo các công cụ thống kê và quản lý hồ sơ bệnh nhân trên môi trường Web đã được ứng dụng rất hiệu quả tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội (Hình 2). MxphXpe. Đám cưới hỏi mỗi vùng miền theo phong tục truyền thống lại có những đặc trưng khác nhau. Để tránh những sai sót thì cô dâu chú rể nên tìm hiểu kĩ trước khi tổ chức hôn lễ. Sau đây, Venus xin “mách nước” đặc trưng lễ ăn hỏi 5 tráp miền Trung để bạn có sự chuẩn bị chu đáo nhất nhé! Người miền Trung chăm chỉ, thật thà, gần gũi và mộc mạc. Chính vì thế, lễ ăn hỏi của người miền Trung cũng đơn giản hơn so với miền Bắc và Nam. Họ coi trọng lễ nghi nhưng lễ vật lại coi nhẹ. Nhà trai có thể chuẩn bị mâm lễ ăn hỏi đơn giản nhưng cần nắm rõ các thủ tục, nghi thức trong lễ ăn hỏi để làm hài lòng họ nhà gái. Xem thêm Lễ ăn hỏi 7 tráp Lễ ăn hỏi 9 tráp >>> Click ngay để không bỏ lỡ những thông tin hữu ích về dịch vụ tráp ăn hỏi, tráp dạm ngõ tại Venus. Lễ ăn hỏi 5 tráp miền Trung gồm những gì? Thông thường, người miền Trung lựa chọn số lượng tráp lễ là 5 trong đám ăn hỏi. Vậy lễ ăn hỏi 5 tráp miền Trung gồm những gì? 1. Tráp trầu cau Dù ở bất kì vùng miền nào thì tráp trầu cau không thể thiếu vì nó có ý nghĩa truyền thống dân tộc tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng gắn bó. Mâm lễ gồm buồng cau kết cùng những lá trầu kết hợp trang trí hoa tươi, phụ kiện tạo vẻ đẹp mắt, sang trọng cho mâm lễ. Đối với người Huế, bạn nên lưu ý trên mâm tráp trầu cau cần có thể gừng và muối để thể hiện lời hứa hẹn ước chung thủy, cùng nhau vượt qua mọi khó khăn gian khổ trong cuộc sống. 2. Tráp bánh phu thê Lễ ăn hỏi 5 tráp miền Trung bắt buộc phải có tráp bánh phu thê. Loại bánh thể hiện cho tình cảm vợ chồng chung thủy với nhau đến hết cuộc đời. Bánh được xếp thành từng cặp tượng trưng cho đôi uyên ương. Số lượng bánh phải là số chẵn và không có yêu cầu về số lượng. Đây là nét đặc trưng của người miền Trung. 3. Chè, thuốc và rượu Tráp lễ thứ 3 không thể thiếu đó chính là chè, thuốc, rượu được xếp chung mang ý nghĩa tượng trưng. Bạn nên tùy chọn số lượng để có mâm tráp đẹp mắt và không quá sơ sài. Hãy chứng tỏ cho nhà gái biết được sự trân trọng mà gia đình nhà trai dành cho nhà gái thông qua việc chuẩn bị lễ tráp. 4. Tráp nến tơ hồng Lễ ăn hỏi 5 tráp miền Trung không thể thiếu cặp nến tơ hồng. Trong lễ ăn hỏi, cặp nến tơ hồng sẽ được thắp sáng. Đối với người miền Trung, nghi thức rất cầu kỳ và nhiều nghi thức. Việc chuẩn bị tráp nến tơ hồng đảm bảo cử hành hôn lễ không bị thiếu trước hụt sau. 5. Các lễ vật khác Quan niệm của người Trung sẽ thách cưới nhà trai dựa vào điều kiện kinh tế gia đình. Nhưng thực tế thì mỗi gia đình đều cố gắng chuẩn bị lễ vật cầu kì hơn để chứng tỏ thành ý với nhà gái. Bạn có thể chuẩn bị thêm tráp lợn sữa quay, tráp nem chả hay tiền sính lễ,… Đặc biệt là đối với các cặp đôi trẻ thì nghi lễ, tập tục truyền thống luôn làm họ bối rối. Vì vậy, để lễ ăn hỏi diễn ra thuận lợi, hoàn hảo thì bạn nên cùng người bạn đời của mình cùng nhau tìm hiểu trước Đối với các cặp đôi, các tập tục trong cưới hỏi luôn làm cho họ bối rối. Chính vì vậy, cả hai phải cùng nhau tìm hiểu và chuẩn bị lễ vật đám hỏi để có một lễ hỏi vừa thuận lợi vừa không đi ngược lại với phong tục tập quán truyền thống. Trên đây là những chia sẻ của Venus về đặc trưng lễ ăn hỏi 5 tráp miền Trung. Hy vọng đã giúp ích cho bạn trong việc tìm kiếm thông tin. Nếu còn bất kì thắc mắc nào, đừng ngần ngại gọi ngay cho Venus để được tư vấn và giải đáp tận tình. CÔNG TY SỰ KIỆN VENUS Hotline Website Add Đầu ngõ 133 Thái Thịnh, Đống Đa, Hà Nội 1. Dẫn nhập Trong chân lý giới hạn chân lý thế gian hay tục đế, saṁvṛti-satya, thế giới quan của Phật giáo gồm có ba cõi trayo dhātavaḥ là - Dục giới kāma-dhātu, - Sắc giới rūpa-dhātu - Và vô sắc giới ārūpya-dhātu; Hay lục đạo ṣaḍakula là - Địa ngục đạo narakagati, - Ngạ quỷ đạo pretagati, - Súc sanh đạo tiryagyonigati, - A-tu-la đạo asura-gati, - Nhân gian đạo manuṣya-gati - Và Thiên đạo deva-gati. Tam giới hay lục đạo luân hồi có vô lượng vô biên thế giới. Mỗi thế giới cũng có vô lượng vô biên chúng sinh sinh sống. Tùy theo nghiệp karman của mình đã gây tạo bằng hành động, lời nói và ý nghĩ thông qua thân kāya-karma, miệng vāk-karma, và ý manas-karma mà chúng sinh nhận lấy một cảnh giới hay một hoàn cảnh sống tương ứng. Nếu nghiệp thiện kuśala thì sẽ tương ứng với cảnh giới thiện, đó là a-tu-la, người và trời; nếu nghiệp bất thiện akuśala thì sẽ tương ứng với cảnh giới bất thiện, đó là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Cảnh giới bất thiện là cảnh giới mà chúng sinh trong đó có hoàn cảnh sống hoàn toàn phải chịu khổ đau, nhưng cảnh giới thiện không có nghĩa là chúng sinh ở trong đó hoàn toàn hưởng thụ hạnh phúc. Theo Phật giáo, chúng sinh sống trong phạm vi ba cõi đều phải chịu khổ đau, mà nỗi khổ đau lớn nhất là phải trôi lăn trong đêm dài tăm tối sinh tử luân hồi. Khổ đau có rất nhiều nguyên do, nhưng gốc rễ chính là tam độc tham lam rāga, giận hờn dveṣa và si mê moha, hay vô minh avidyā. Muốn thoát khỏi khổ đau cần phải nhổ tận gốc rễ tam độc. Mục đích cứu cánh của Phật giáo là ly tham, giải thoát. Để đạt được mục đích cứu cánh ấy, Phật dạy tám vạn bốn ngàn pháp môn, và pháp môn nào cũng phải đi qua Giới, Định và Tuệ. Tựu trung có ba con đường đi đến giác ngộ giải thoát là Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông. Thiền tông chú trọng tự lực. Tịnh độ tông chú trọng tha lực. Mật tông thì phối hợp cả tự lực và tha lực. Trai đàn bạt độ là một hình thức tổng hợp sức mạnh của tự và tha ấy. 2. Ý nghĩa đàn tràng Trai đàn 齋壇 có nghĩa là một đạo tràng thanh tịnh. Bạt là nhổ lên, độ là vượt qua, thoát khỏi. Trai đàn bạt độ là một đạo tràng thanh tịnh được tổ chức để nhổ bật gốc rễ của lòng tham để vượt qua các nẻo luân hồi. Về hình thức, trai đàn được bố trí theo một hình thức đơn giản của một trong hai bộ mạn-đà-la maṇḍala, đó là Kim cang giới mạn-đà-la vajradhātu-maṇḍala biểu tượng cho trí tuệ sở chứng của Phật, hay Thai tạng giới mạn-đà-la garbhadhātu-maṇḍala biểu tượng cho phương tiện độ sinh của Ngài. A - Kim cang giới mạn-đà-la có dạng cơ bản là một hình tròn, gọi là nguyệt luân candra-maṇḍala. Bên trong hình tròn được sắp xếp như sau - Chính giữa là vị trí đức Đại Tỳ-lô-giá-na, hay Đại Nhật Như-Lai MahāVairocana-Tathāgata. Đó là Pháp thân Phật DharmakāyaBuddha, như mặt trời bủa rộng ánh sáng bình đẳng và bao dung cùng khắp cả vũ trụ. Trong năm đại pañcadhātu, Ngài biểu tượng cho không đại ākāśadhātu, và bản chất của hư không là bao dung. Trong năm uẩn, Ngài là biểu tượng của thức uẩn vijñāna-skandha. Trong năm loại trí, Ngài biểu tượng cho Pháp giới thể tánh trí dharma-dhātu-svabhāva-jñāna. - Phương đông là A-Súc-Bệ Phật Akṣobhya, hay Bất-Động Như Lai với các biểu tượng Phong đại vāyu-dhātu, nhờ đó mà vũ trụ có vận động; hành uẩn saṃskāra-skandha, động cơ tạo tác của các loại hữu tình; đại viên cảnh trí ādarśa-jñāna, như tấm gương tròn bao la và ngời sáng phản chiếu mọi hiện tượng sinh thành và hủy diệt của thế giới. - Phương Nam là Bảo Sinh Phật Ratnasambhava với các biểu tượng hỏa đại tejo-dhātu, khả năng làm chín muồi để đưa đến chỗ thành tựu các vận động của chúng sinh và thế giới; tưởng uẩn saưjñā-skandha, khả năng truy ức quá khứ và ước vọng tương lai để thúc đẩy sự tiến hành sinh hóa; bình đẳng tánh trí samatā-jñāna, khả năng quan sát bình đẳng các pháp không bị ràng buộc ngã và pháp. - Phương tây là A-di-đà Phật Amitabhā thủy đại ab-dhātu, khả năng kết hợp các pháp để tác thành duyên sinh hay duyên khởi; thọ uẩn vedana-skandha, khả năng hưởng thụ thành quả của các vận động; diệu quán sát trí pratyavekśaṇā-jñāna, nhìn thấy rõ chân tướng của vạn hữu của tác dụng sinh khởi, tồn tại và hủy diệt. - Phương bắc là Bất Không Thành Tựu Như lai Amoghasiddhi địa đại pṛthivī-dhātu, khả năng duy trì sự tồn tại của vũ trụ; sắc uẩn rūpa-skandha, tác thành thế giới hữu tình; thành sở tác trí kṛtyānuṣṭhāna-jñāna, thể hiện các phương tiện giáo hóa chúng sinh. Mỗi đức Như lai đều có bốn Bồ tát thân cận. Tất cả là mười sáu Đại bồ tát. Ngoài ra, nội đàn có bốn cúng và ngoại đàn bốn cúng; tất cả tám cúng dường bồ-tát. Cùng với bốn Nhiếp bồ tát nữa. Cơ bản, Kim cang giới mạn-đà-la có tất cả ba mươi bảy tôn vị. B- Thai tạng giới biểu hiện đại bi tâm của Phật, từ đó lưu xuất tất cả các phương tiện độ sinh. Từ Thai tạng giới, vạn pháp được thai nghén và dưỡng dục, cho đến thành tựu các phẩm chất siêu việt của đại trí và đại bi. Do đó, đàn tràng của Thai tạng giới được hình dung là một đóa sen có tám cánh. Đóa sen tám cánh này chính là hình ảnh trái tim bằng thịt của chúng sinh. Đại bi tâm không phải là một khái niệm trừu tượng, nhưng là sự rung động của trái tim bằng thịt ấy. Hoa sen, theo ý nghĩa nhân quả đồng thời, nghĩa là khi chúng sinh vừa phát tâm bồ-đề, ngay lúc ấy Phật quả đã được thành tựu. Bởi vì, trong thể tính tuyệt đối, ý niệm về thời gian và không gian không tồn tại. Từ ý nghĩa đó, tám cánh sen gồm bốn Đại Bồ tát, và bốn đức Như lai, biểu hiện nhân cách của nhân và quả; tất cả đều phát xuất từ thể tính của Đại Nhật Như lai vốn là đài sen, ở trung tâm của mạn-đà-la. Bốn đức Như lai, theo thứ tự từ Đông qua Bắc như sau - Phương đông, Bảo Tràng Phật Ratnaketu. Ngài là hình ảnh của bồ đề tâm bodhicitta. Bảo tràng làm tiêu xí cho sự phát bồ đề tâm. Dưới cội bồ đề, Như lai đã dương cao tiêu xí này mà đánh bại binh chúng Ma, thành tựu Vô thượng Chánh giác. - Phương nam, Khai Phu Hoa Vương Như lai Kusumita-rāja, an trụ trong ly cấu tam-muội vimala-samādhi, bằng hạt giống bồ-đề tâm mà vun trồng và phát triển thành vô số hành động của đại bi, như đóa hoa nỡ rộ. - Phương tây, Vô Lương Thọ Như lai Amitayus, biểu hiện Báo thân hay Thọ dụng thân của Phật Sambhoga-kāya, kết quả của vô số công đức tu tập, với hình ảnh hoa sen hàm tiếu. - Phương bắc, Thiên Cổ Lôi Âm Phật Divyadundubhi, biểu hiệu phẩm tính của Niết bàn; được ví dụ như chiếc trống trời, vốn không hình tướng nhưng âm vang rền xa. Đó là pháp âm của Như lai được công bố. Ở bốn phương góc là bốn Đại Bồ tát. Phương đông nam, Phổ Hiền Bồ-tát Samantabhadra. Đông bắc, Quán Tự Tại Bồ-tát Avalokiteśvara. Tây nam, Diệu Cát Tường Đồng tử Mañjuśrì-kumàra. Tây bắc, Từ Thị Bồ-tát Maitreya. Chung quanh trung đài bát diệp viện gồm bốn lớp, mỗi lớp có bốn viện. Mỗi viện biểu thị một phương diện độ sinh của Phật. Cả hai bộ mạn-đà-la cũng có thể tượng trưng như hai bàn tay. Bàn tay mặt là Kim cang giới. Từ ngón út cho tới ngón cái, theo thứ tự Về năm uẩn, ngón út là sắc uẩn, và lần lượt là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Về năm đại, năm loại trí, và năm vị Như Lai cũng theo thứ tự tương xứng đó. Về các ba-la-mật, tính từ ngón út bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn cho đến ngón cái là thiền định ba-la-mật. Bàn tay trái là Thai tạng giới; cũng tính từ ngón út cho đến ngón cái theo thứ tự, với năm đại, năm uẩn, như bàn tay mặt. Về các ba-la-mật huệ, phương tiện, nguyện, lực và trí. Như vậy, khi hai bàn tay hiệp lại, trọn vẹn cả bi và trí của Phật. Đàn tràng chẩn tế được bố trí dựa trên căn bản vũ trụ luận khái lược, với một ít thay đổi. Đơn giản mà nói, đàn tràng được bố trí như là thâu gọn thế giới vũ trụ thành một thực tế hiện hữu cụ thể trước mắt. Mục đích của sự bố trí này là cốt khai triển năng lực gia trì hổ trợ của Phật adhiṣṭhānādhiṣṭhita. Mật giáo nói Phật thể hiện phương tiện độ sinh của Ngài bằng vào uy lực gia trì. Gia trì về ba phương diện, mà thuật ngữ gọi là “tam mật du-già”, tương xứng theo ba hành nghiệp của một chúng sinh thân, miệng và ý. Sự gia trì, tức uy lực hỗ trợ của Phật, được thể hiện nơi thân của một chúng sinh qua các tư thế ngồi và các thủ ấn, nghĩa là các ngón tay của hai bàn tay giao nhau trong một tư thế nào đó đã quy định. Gia trì nơi miệng được thể hiện qua sự tụng niệm các chân ngôn. Ý mật gia trì nhờ sự quán tưởng về hình tướng Phật, hay các văn tự theo lối viết Brahmì, mà trong Phật giáo gọi là tự mẫu tất-đàm siddhaṃ. Tổng hợp sức mạnh của “tam mật du-già” sẽ tác động lên tâm thức của chúng sinh khiến tâm thức ấy chuyển hóa mọi tâm lý tham lam, giận hờn, si mê, biết lắng nghe, thấu hiểu, biết buông bỏ mọi oán thù oan trái… để hướng tâm đến vô ngã, vị tha, và ngay đó chúng sinh được giải thoát. 3. Đối tượng của đàn tràng Đối tượng chính của trai đàn bạt độ là chúng sinh trong đường ngạ quỷ, mà chúng ta vẫn thường nói nôm na là ma hay cô hồn. Đó là những người chết chưa được siêu thoát. Những người đó có thể là cha, mẹ, anh, em, bà con của chúng ta. Du-già tập yếu Diệm khẩu thí thực nghi, Đại tạng kinh Đại chính tân tu, tập 21, tr. 483b, liệt kê tất cả mười loại cô hồn, như sau 1. Thủ hộ quốc giới những oan hồn vị quốc vong thân, tức những chiến sĩ đã hy sinh vì tổ quốc, nhưng nói chung là tất cả những người tử trận ở cả hai đầu chiến tuyến. 2. Phụ tài khiếm mạng chết vì oan gia trái chủ, nợ nần, trụy thai. 3. Khinh bạc Tam bảo bất hiếu, bội nghịch vô đạo. 4. Giang hà thủy nịch thương khách chết sông, chết biển. 5. Biên địa tà kiến những người sống tại biên ải hẻo lánh. 6. Ly hương khách địa cô khổ phiêu bạt, chết đường chết xá, những người vì hoàn cảnh nào đó phải rời bỏ quê hương đi tìm con đường sống, phải vượt biên và đã bỏ mình oan uổng giữa biển khơi muôn trùng… 7. Phó hỏa đầu nhai tự tử, nhảy sông, nhảy núi, chết đâm, chết cháy, chết do tai nạn giao thông… 8. Ngục tù trí mạng chết trong ngục tù. 9. Nô tì kết sứ nô lệ cùng khổ, chết vì đày đọa lao dịch. 10. Manh lung ám á đui, què, câm, điếc, không người chiếu cố. Các khoa nghi khác còn kể thêm một số cô hồn nữa, như vua chúa, quan văn, quan võ của các triều đại, chết do tai nạn bị cướp ngôi hay nuôi mộng nhất thống giang hà nhưng chưa thành tựu; sinh viên học sinh ngày đêm học tập nuôi mộng công danh nhưng nửa chừng chết yểu; các tu sĩ, đạo sĩ vì một số lý do nào đó hoặc chưa ngộ đạo nên cứ quanh quẩn nơi chùa xưa, miếu cũ một thời họ sinh sống. Những chúng sinh trong đường ngạ quỷ phải chịu cảnh sống vô cùng khổ đau. Một mặt, do vì nghiệp duyên đã gây tạo, dù đã chết nhưng họ vẫn cứ mãi ôm ấp hận thù, quyến luyến đời sống thế gian, tham tiếc tài sản… ; một mặt không người thờ cúng, nhớ tưởng nên họ sống trong cảnh lạc loài, bơ vơ, chẳng người thương nhớ, chẳng chỗ nương nhờ, chẳng người cúng tế… Do đó, chúng sinh trong đường ngạ quỷ đói khát về vật chất lẫn tinh thần. Đức Phật với tấm lòng từ bi mẫn, xót thương tất cả chúng sinh, nên đã phương tiện thuyết ra nhiều pháp môn nhằm cứu bạt nỗi khổ đau của mọi loài, trong đó khoa nghi trai đàn bạt độ là pháp thức đặc biệt để cứu độ chúng sinh đường ngạ quỷ. Khi thực hiện pháp sự này, nhờ uy lực của “tam mật du-già” mà chúng sinh trong đường ngạ quỷ được an ủi vỗ về bằng những lời kinh tiếng kệ được tán thỉnh lên bằng giọng ai rất tha thiết, thấm đậm tình người, nhưng cũng đầy triết lý mầu nhiệm của Phật pháp thâm sâu, đồng thời họ cũng được dự một bữa tiệc chay no nê sau bao tháng năm đói khát khốn cùng. “Pháp lực bất tư nghì, từ bi vô chướng ngại, thất liệp thập phương, phổ thí châu sa giới”. Sức mạnh của pháp Phật không thể nghĩ bàn, với lòng từ bi không chướng ngại, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, buổi pháp thí trong hội vô giá có thể biến bảy hạt cơm tràn đầy cả mười, làm no đủ cho hằng hà sa số chúng sinh. 4. Kết luận Trai đàn chẩn tế kỳ siêu bạt độ là một pháp môn tu trong vô lượng pháp môn. Nó là một hình thức bố thí, gồm cả tài thí lẫn pháp thí. Dĩ nhiên, sự bố thí tài vật trong đàn tràng, mặc dù con mắt phàm tục của người sống thấy chẳng có một chút hư hao, nhưng tất cả đều đã được chúng sinh trong đường ngạ quỷ thụ dụng, và họ thụ dụng bằng phương pháp thức thực và cả tư niệm thực nữa. Tuy nhiên, quan trọng nhất vẫn là pháp thí. Bởi chỉ có pháp thí mới giúp chúng sinh nhận được tài thí, và chỉ có pháp thí mới giúp chúng sinh thoát khỏi cảnh giới khổ đau, siêu sinh về miền tịnh độ. Đối tượng chính của trai đàn bạt độ là chúng sinh trong đường ngạ quỷ, nhưng trong những chúng sinh ấy, biết đâu chừng có cả ông, bà, cha, mẹ, anh, em, bà con, bạn bè… của chúng ta? Dù không phải là họ hàng thân thích, thì trên mảnh đất này, biết bao người đã nằm xuống cho chúng ta sống còn? Và dù những chúng sinh ấy không liên hệ gì đến chúng ta, nhưng họ đang đói rách bơ vơ thế kia lẽ nào mình lại ngoảnh mặt làm ngơ ? Cho nên, pháp hội trai đàn bạt độ là một cách để chu tất món nợ ân tình giữa người còn sống với người đã chết. Bao nhiêu oan trái, hận thù vùi chôn dưới lòng đất, chìm sâu dưới đáy biển muôn trùng hay ẩn nấp đâu đó trong tâm hồn của người chết lẫn người sống, thì hôm nay, trong hội vô giá cam lồ này, nguyện nhờ lời kinh tiếng kệ mà hóa giải oan khiên thành tình thương yêu, sự hiểu biết và lòng cảm thông, tha thứ. Xin nguyện biến oan khiên thành ân nghĩa. Ân cha mẹ, ân thầy tổ, ân của trời đất, ân của đồng loại. Ân nghĩa ấy đã thắt chặt tình người qua bao nhiêu kiếp! Ý Nghĩa Trai Đàn Chẩn Tế Cô Hồn Trong các lễ cúng thí Cô hồn, Trai đàn Chẩn tế được tổ chức quy mô nhất. Nó bao hàm cả hai khía cạnh văn chương và triết lý, gần như tất cả tinh hoa của tư tưởng và văn học Phật Giáo Đại thừa Mật Tông được gói trọn vào đây. Về hình thức, trai đàn nầy dựa trên nền tảng của triết học Mật giáo. Tức bố trí theo một hình thức đơn giản của mạn đà la mandala. Đó là một vòng tròn, được tượng trưng như một đóa hoa sen nở trọn, và vòng tròn nầy là căn bản vũ trụ luận của Mật Giáo. Thông thường có hai bộ mạn đà la. Kim Cang giới mạn đà la Vajradhàtu-mandala biểu tượng cho trí huệ sở chúng của Phật. Thai tạng giới mạn đà la garbhadhàtu-mandala biểu tượng cho phương tiện độ sanh của Ngài. Mỗi mạn đà la đều dựa trên một số chủ điểm tư tưởng của Đại thừa giáo. Chủ điểm đáng ghi nhớ nhất, đại lược như sau Trước hết, chúng ta nên biết rằng theo quan điểm truyền thống Phật giáo, vũ trụ gồm hai thành phần. Một đằng là nhân cách, tức lấy con người hay các loài hữu tình làm bản vị, mà trên hết, lấy nhân cách của Phật làm biểu hiệu cho bản thể tuyệt đối. Đằng khác nữa, là thế giới của nhân cách, là những pháp sở chứng và thọ dụng bất khả tư nghị của Phật. Nhân cách có năm yếu tố, gọi là năm uẩn sắc, thọ tưởng, hành, thức. Chúng tập họp lại thành một bản ngã giả tưởng nên được gọi là uẩn. Thế giới của nhân cách được cấu tạo bởi năm yếu tố, gọi là năm đại địa, thủy, hỏa, phong và không. Trên cơ sở giáo nghĩa nầy, trước hết mạn đà la của Kim cang giới được thiết lập để biểu hiện trí huệ sở chứng của Phật. Kim cang là loại chất rắn không bị bất cứ gì hủy hoại được. Do đókim cang được vận dụng như một khái niệm cụ thể hóa yếu tính tồn tại của Phật thân, gọi là kim cang bất hoại thân vajrasauhatanakàya. Thân ấy, cũng như thân của tất cả mọi loài chúng sinh, đều do năm uẩn và năm đại cấu thành. Nhưng tồn tại của Phật thân không khác biệt với hoạt dụng của Phật trí. Do đó, năm đại tương ứng với năm trí. Và nhân cách của Phật, như là chỉnh thể thống nhất của tồn tại và nhận thức, được biểu hiện thành năm đức Như Lai tương ứng, tức Ngũ Trí Như Lai, hay năm vị Thiền Phật sẽ nói rõ ở phần Ngũ Phương Phật. Sau đây sẽ mô tảsơ lược một trai đàn chẩn tế từ trong ra ngoài Từ trong ra. NỘI ĐÀN 1. Bàn Phật Tại chùa có Chánh điện, tại tư gia có Bàn thờ Phật là nơi Tham Lễ Giác Hoàng 2. Bàn kinh Nơi để nghi thức, chuông mõ, pháp khí. NGOẠI ĐÀN 1. Màn Sư tử tòa Sư tử tòa là chỗ ngồi của Phật. Phật là bậc oai đức hơn tất cả chúng sanh. Cũng như sư tử dõng mãnh hơn tất cả các thú. Chớ chẳng phải Phật ngồi trên mình con sư tử. Cho nên dù Phật ngồi bất cứ đâu, dù trên ghế, hòn đá, gốc cây hay mặt đất. . . thì những chỗ đó đều gọi là Sư Tử Tòa. Vậy bức màn Sư Tử Tòa là bức màn có hình con sư tử được vẽ rất oai nghiêm, dõng mãnh treo sau lưng vị Gia Trì Sư, tượng trưng chỗ ngồi của Phật. 2. Bảo Tọa chỗ ngồi của Gia Trì Sư, khi ngồi vào đây là đại diện chư Phật vì chúng sanh, đặc biệt là cô hồn mà tuyên dương Chánh pháp. Theo khoa nghi, trước khi vị chủ sám vào chỗ ngồi phải cung hành một nghi thức mật pháp rất trang nghiêm. Sau khi cung thỉnh Ngũ Phương Phật xong , vị chủ sám đến đứng trước bàn Giác Hoa. Vị tả kim đài 1 đứng ở vị trí ở bàn kim đài, hai tay nâng thủ lư cung thỉnh Vị Gia Trì Sư đăng bảo tọa để thuyết giới cho cô hồn. Sau khi vị Gia Trì Sư đáp lại và xin chư Phật cho phép đăng bảo tọa. Vị tả kim đài 1 ra lệnh cử chuông trống bát nhã bằng động tác vỗ vũ xích, chuông trống bát nhã cử hành, Vị Gia Trì Sư quay về trái đi lên bảo tòa. Kinh sư vào vị trí bàn kim đài. 3. Màn song khai Trước bảo toạ là bức màn phân làm đôi, được đóng lại hoặc mở ra tùy theo lúc qui định trong khoa nghi. 4. Bàn kim đài Kinh sư ngồi hai bên tả hữu mỗi bên ba hay bốn vị. Thứ tự tính từ trong ra ngoài. Có một vài sự đổi thay nhỏ tùy vùng xử dụng tang và mõ. Huế, kinh sư ngồi ghế để đầu trần. Bình Định, kinh sư ngồi xuống chiếu, đầu đội tỳ lư, xử dụng 2 đẩu giống cái tang nhưng không có cán và mõ. Miền nam, kinh sư ngồi ghế đầu trần, xử dụng 2 đẩu và mõ. 5. Bàn Giác Hoa Giác hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, một đức Phật ở cõi Ta bà, hồi đời qúa khứ cách nay không biết bao nhiêu kiếp. Ngài có tuổi thọ bốn trăm ngàn vạn ức a tăng kỳ kiếp. Về đời tượng pháp của đức Phật ấy có một cô gái Bà la môn, nhơn mẹ vừa khuất, đến chiêm lễ tượng Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương tại chùa cầu cho biết hồn mẹ ở chốn nào, ngài liền khiến thần thức của cô gái ấy đến cõi địa ngục. Nơi đây quỷ vương cho biết nhờ phước đức cúng Phật và bố thí của thánh nữ, hồn bà được thoát cảnh điạ ngục mà lên cảnh tiên. Cô gái ấy tức là tiền thân của Địa Tạng Bồ Tát. 6. Các án Ngũ phương Phật Ngũ phương Phật là một hệ thống phối trí chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hộ pháp hết sức thâm diệu của Phật giáo Mật Tông, Ngũ phương Phật là sự phối hợp giữa Ngũ phương, Ngũ Trí, Ngũ Phật, Ngũ Bộ và Ngũ Hành trong Thai Tạng Mạn đà la và Kim Cang Giới Mạn đà la. Theo sự truyền thừa của Phật giáo Việt Nam từ xưa đến nay trong Trung Khoa Du Già Tập Yếu khắc bản năm Mậu Tý triều Vua Đồng Khánh và bài viết “LỄ THÁNG BẢY cho những oan hồn phiêu bạt” của Thầy Tuệ Sĩ, đàn tràng Chẩn tế tại Việt Nam được cung trần theo Kim Cang Giới Mạn Đà La. Chúng tôi xin trình bày khái quát như sau Kim cang giới mạn đà la là thuyết minh hoạt dụng của trí huệ sai biệt trong lý tính không sai biệt, do đó Ngũ trí Như lai là trọng tâm của mạn đà la nầy. Hình dạng cơ bản là một hình tròn, gọi là nguyệt luân candramandala. Bên trong hình tròn nầy thiết lập các biểu tượng của năm vị Như Lai. Án Trung ương Chính giữa là vị trí Đức Phật Tỳ Lô Giá Na tức Đại Nhật Như Lai Mahà Vairocana – Tathàgata hiển thân sắc màu vàng, đối diện với bàn Giác Hoa. Đó là Pháp thân Phật Dharmakàya Buddha, như mặt trời bủa rộng ánh sáng bình đẳng và bao dung cùng khắp vũ trụ. Trong năm đại, Ngài biểu tượng cho không đại àkàzadhàtu, và bản chất của hư không là bao dung. Trong năm uẩn, Ngài là biểu tượng của thức uẩn. Trong năm loại trí, Ngài biểu tượng cho Pháp giới thể tánh trí. Bốn phương chung quanh Ngài Đại Nhật Như Lai là vị trí của bốn đức Như Lai, theo thứ tự từ Đông qua Nam cho đến Bắc mà quý vị trong khoa Chẩn Tế thường nói cho dễ nhớ Tả Đông, Nam. Hữu Tây; Bắc từ trong đi ra theo chiều kim đồng hồ, tức bên tay trái là phương Đông và Nam, bên tay phải là phương Tây và Bắc như sau Án Phương Đông A Súc Phật Akwobhya hay Bất Động Như Lai, hiển sắc thân màu xanh, trở mặt vào án Trung ương với các biểu tượng Phong đại vàyu-dhàtu, nhờ đó mà vũ trụ có vận động; hành uẩn động cơ tạo tác của các loại hữu tình; Đại viên cảnh trí, như tấm gương tròn bao la và ngời sáng phản chiếu mọi hiện tượng sinh thành và hủy diệt của thế giới. Án Phương Nam Bảo Sanh Phật Ratnasambhava, hiển sắc màu đỏ, trở mặt vào Trung ương với các biểu tượng Hỏa đại tejo-dhàtu, khả năng làm chín muồi để đưa đến chỗ thành tựu các vận động của chúng sanh và thế giới; tưởng uẩn, khả năng truy ức quá khứ và ước vọng tương lai để thúc đẩy sự tiến hành sinh hóa; Bình đẳng tánh trí, khả năng quan sát bình đẳng các pháp không bị ràng buộc ngã và pháp. Án PhươngTây A Di Đà Phật Amitabhà, hiển sắc màu trắng, trở mặt vào Trung ương, biểu tượng Thủy đại, khả năng kết hợp các pháp để tác thành duyên sinh hay duyên khởi; thọ uẩn, khả năng hưởng thụ thành quả của các vận động; Diệu quan sát trí, nhìn thấy rõ chân tướng của vạn hữu, của tác dụng sinh khởi, tồn tại và hủy diệt. Án Phương Bắc Bất Không Thành Tựu Phật Amoghasiddhi, hiển sắc màu đen, trở mặt vào Trung ương, biểu tượng Địa đại, khả năng duy trì sự tồn tại của vũ trụ; sắc uẩn, tác thành thế giới hữu tình; Thành sở tác trí, thể hiện các phương tiện giáo hóa chúng sanh. Phía sau Ngũ phương Phật là 1. Bàn Địa Tạng đồng hướng với Trung ương 2. Bàn hộc thực thấp, để đồ cúng Cô hồn 3. Bàn Tiêu Diện cao hơn bàn Địa Tạng Trai đàn chẩn tế còn gọi là trai đàn bạt độ. “Bạt” có nghĩa là nhổ lên, nhổ tận gốc rễ phiền não tham sân si, làm cho thế giới nhẹ nhàng thanh thản. “Độ” có nghĩa là vượt qua, thoát khỏi những chướng duyên mê si tăm tối, những sự việc xảy ra rắc rối hàng ngày, hằng giờ, hằng tâm . Ý nghĩa trai đàn chẩn tế Trước nhất chúng ta tìm hiểu về ý nghĩa trai đàn chân tế? Trai đàn là lễ hội cúng chay, chẩn tế là thí, cấp phát, phát chẩn gạo, thức ăn... giúp người đói. Trong đạo Phật, lập đàn chẩn tế là một nghi thức cúng, để bố thí thức ăn cho cô hồn. Trai đàn chẩn tế còn là lễ hội “làm chay” bố thí cấp phát lương thực giúp cho người qua cơn bức ngặt đói khát, không còn thiếu thốn, ban phát thí thực cho cô hồn hưởng thọ, được no. Trai đàn chẩn tế còn gọi là “trai đàn thủy lục” là một pháp hội cúng chay và cầu siêu cho những vong hồn người chết không có ai thờ tự, không có nơi nương tựa, đang sống vất vưỡng ở dưới nước và ở trên cạn. Trai đàn chẩn tế còn gọi là trai đàn bạt độ. “Bạt” có nghĩa là nhổ lên, nhổ tận gốc rễ phiền não tham sân si, làm cho thế giới nhẹ nhàng thanh thản. “Độ” có nghĩa là vượt qua, thoát khỏi những chướng duyên mê si tăm tối, những sự việc xảy ra rắc rối hàng ngày, hằng giờ, hằng tâm niệm. Nhổ bật gốc rễ của lòng tham để vượt qua các nẻo luân hồi, đấy là mục đích chính của đạo Phật.. Giáo lý Phật dạy thì nhiều, gồm tam tạng thánh điển, như nấc thang từ thấp lên cao, từ giáo lý dạy cho Cư sĩ cho đến giáo lý dạy cho hàng xuất gia, từ tiểu thừa lên đại thừa, những giáo lý cao siêu đó, cuối cùng được đúc kết "chỉ có một vị duy nhất là vị ly tham, vị giải thoát trần tục, xả bỏ vị kỷ, ích kỷ cá nhân mà sống chua, chia sẻ cùng cộng đồng...” Các bậc Tổ sư xưa, trong đó có các bậc Thiền sư tu đắc đạo, các bậc Đại sư dạy tu niệm Phật, các bậc Pháp sư dạy niệm chú. Việc chủ yếu của ba nhà Phật học nầy là chế tác đấy đủ pháp môn tu, trong đó có tự lực và tha lực và cuối cùng Ngài Bất Động pháp sư. Ngài tu ở núi Mông Sơn, thời nhà Tống hoằng truyền phối hợp tự lực và tha lực gom thành một mối thành bài kinh gọi là Mông Sơn Thí Thực. Trong bài Mông Sơn có dạy niệm Kinh, niệm Phật, niệm chú, tạo thành một uy lực dũng mãnh đánh tan những tham sân si, những nghiệp lực của chúng sanh vạn lọai. Trai đàn chẩn tế thời xưa Theo Ngài Đạo An 314-385, danh Tăng thế kỷ thứ IV thời Đông Tấn, hiện nay thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc thì tập tục cúng chẩn tế cho người chết không phải là tập tục của Phật giáo. Chỉ đến thế kỷ thứ VI, vua Lương Võ Đế 464–549 mộng thấy một vị Thần Tăng bảo rằng “Bốn loại quần linh trong sáu đường bị khổ vô lượng, sao chẳng lập đàn Thuỷ lục mà phổ tế. Trong các công đức, đó chính là công đức lớn vậy.” Vua Lương Vũ Đế hỏi các sa môn, thảy đều không biết, riêng ngài Chí Công khuyên vua rộng tìm kinh luận ắt có nhân duyên. Vua bèn sưu tầm kinh bối diệp để ở điện Pháp Vân, sớm tối giở đọc. Y theo việc ngài A Nan gặp Diện Nhiên quỷ vương, vua thiết lập ý nghĩa bình đẳng hộc thực, chế tác nghi văn, ba năm mới xong, rồi cử hành Thủy lục trai đàn ở chùa Kim Sơn, thuộc Trấn Giang, Giang Tô, Trung Quốc ngày nay Thời đại nhà Đường 618 - 907, đến nhà Tống 960-1279 bên Trung Hoa, mỗi đàn có một hay nhiều trai chủ đóng góp, cùng chung thực hiện. Tại Việt Nam, sách Phật “Thiền uyển tập anh” Tăng thống Huệ Sinh -1064 đời vua Lý Thánh Tông 1023 – 1072, có để lại tác phẩm “Pháp Sự Trai Nghi” nói đến nghi thức chẩn tế. Đến thế kỷ thứ XVIII sau khi chiến thắng quân Thanh vua Quang Trung 1753 – 1792, vua Gia Long 8/2/1762 - 3/2/1820 sau khi thống nhất sơn hà, đổi tên nước là Việt Nam, lên ngôi đem triều đình và trăm họ gom về một mối. Nhà vua liền tổ chức trai đàn bạt độ “tạo cho không khí chết chóc, cảnh tàn sát lẫn nhau” sự điêu tàn “khí chết” không còn quây quần bên triều đình dòng họ Nguyễn Phúc sau thời chiến. Vào năm Giáp ngọ, Chúa Nguyễn Phúc Chu 1675-1725 cho tổ chức trai đàn tại chùa Linh mụ cầu cho quốc thái dân an, cho các quân lính tử trận được siêu thoát. Và vào những năm đầu thập niên 70, do chiến tranh gây ra nhiều cảnh chết chóc hãi hùng, khoa nghi chẩn tế được thực hiện rất nhiều, nhất là tại Huế. Hầu như tháng nào ở đây cũng có ít nhất một đàn. Trai đàn tại các tự viện Năm 1961 Tân Sửu tại Tổ Đình Linh Sơn, núi Bồng Lai, Đức Tôn sư Thiện Phước - Nhựt Ý cũng tổ chức lễ cầu an cầu siêu, trai đàn bạt độ 7 ngày. Cầu nguyện anh linh chiến sĩ, anh linh liệt sĩ, các chư vị, chư thần, trăm quan thần cựu hy sinh vì đại nghĩa, các vong hồn yểu tử, kẻ chết sông người chết suối, tại nạn trên không, dưới biển. Lễ chẩn tế rất quy mô có cả tín đồ Phật tử tham dự ghi danh cầu nguyện, các đàn của các tự viện chùa Linh Sơn, Nhứt Nguyên bửu tự, chùa Phổ Hiền, chùa Phước Thiện An ở dưới thế cũng đăng sơn, rước các vong linh, thập lọai cô hồn câu hội nghe kinh, thọ hưởng phước lạc. Tháng 7 năm Nhâm Dần 1962 Linh Sơn cổ tự do Hòa thượng Thích Hồng Quang làm Trụ trì, gần chân núi Bồng Lai, hiện nay từ năm 2000 do Sư cô Thích nữ Hiếu Hạnh làm Trụ trì. Lúc bấy giờ Hòa thượng tổ chức trai đàn bạt độ cầu siêu thập lọai cô hồn có khoảng 800 người tham dự, lúc bấy giờ Sư cũng tham dự làm công quả chuyển lương thực cho chùa. Một cuộc thí thực bao giờ cũng tốn kém, Phật tử phải sắm sanh bánh nếp, bánh cấp, bánh cúng, bánh tét, bánh ngọt, các lọai giấy vãng sanh, giấy tiền, giấy vàng bạc, tất cá các lọai bánh ngọt được sắp xếp lên đến hàng chục nia, các lọai trái cây xẻ sẵn, muối gạo, tiền xu, tiền đồng, tiền bạc cắc, tiền giấy được đổi thành tiền nhỏ được đặt vào các nia trống, tất cả đều được sắp xếp đặt lên giàn dựng thật cao khoảng 12 mét. Đến 12 giờ trưa ngày 14 tháng 7 năm đó, chư vị Pháp Sư, chư sơn thiền đức, chư Tăng đều lên trên giàn tác pháp, tụng kinh Mông sơn cho đến 15 giờ hồi hướng, đổ giàn. Dùng từ đổ giàn tức là xả lưỡi ông tiêu, thí các lọai bánh, tiền, trái cây đã cúng và được làm phép mở miệng cho các cô hồn ngạ quỷ đến nhận phần thọ thực, ăn uống. Người dương chủ yếu là trẻ em, thay mặt các gia đình người lớn đến xin lưỡi ông tiêu, xin bánh, nói là xin, chứ thật ra rất nhiều những hình ảnh chỉ là chụp giựt, ai giỏi thì lấy được nhiều, ai dở yếu hơn thì lấy được ít. Quan niệm của các vị là đem của thí nầy về nhà ăn sẽ hết bệnh, khỏi bị tà ma quấy nhiễu. Đây là truyền thống thí thực có từ thời nhà Đường, nhà Tống do chư Tăng bên Trung Hoa thực hiện. Truyền thống chẩn tế trai đàn bạt độ vẫn còn giữ truyền thống tại chân núi Bồng Lai, Tổ Đình Linh Sơn Bà Rịa Vũng Tàu, các nơi khác trong tông phong Tịnh Độ Non Bồng còn tác pháp như chùa Thiền Tịnh Dakao 1964, Long Sơn cổ tự Bình Dương, Quan Âm Tu Viện Đồng Nai, Nhứt Nguyên Bửu Tự Bình Dương, chùa Phước Thiện An Chí Minh, chùa Phước Ân Long An, chùa Phước An Gò Công, Tiền Giang hằng năm đều có cúng trai đàn bạt độ. Năm 1971, 1972 hai năm liền Đức Tôn sư tổ chức lễ trai đàn bạt độ cầu nguyện cho những người chết vì chiến tranh, mỗi lễ trai đàn tổ chức 7 ngày, mỗi ngày có khoảng lượt tín đồ Phật tử khắp nơi về tham dự, ghi danh cúng kiếng cầu nguyện chư vong linh. Cúng trai đàn chẩn tế có tâm vóc quy mô, quy tụ nhiều gia đình gọi là đại lễ. Cúng vong là nghi lễ các tự viện xưa cũng như nay cúng hàng ngày, hoặc ở gia đình có nhu cầu cúng kiếng, chỉ thỉnh một vị Thầy để chủ trì lễ cúng vong theo nghi thức Tiểu Mông Sơn. Cúng vong còn là nghi lễ cúng kiếng cầu siêu cho vong linh người thân vừa qua đời, cúng thất, tuần chung thất, cúng 100 ngày, cúng giáp năm, cúng mãn khó, cúng kỵ giỗ theo nghi thức cúng cửu huyền. Lợi ích trai đàn chẩn tế Cúng trai đàn chẩn tế xong các gia đình rất vui mừng vì đã làm được việc phước thí lớn lao. Việc tổ chức trai đàn có 2 ý nghĩa chánh Một là, giúp các gia đình Phật tử có dịp gặp nhau, làm việc phước thí theo tâm nguyện của ông bà, của gia đình. Việc cúng kiếngg đem lại lợi ích, đoàn kết hòa hợp trong các giới Phật tử, tuy là Phật tử nhưng ít gặp nhau, nay được gặp lại trong lễ cúng trai đàn làm việc bố thí, sinh khí đạo đức sanh khởi, mọi gia đình an vui, an cư lạc nghiệp. Hai là tạo cho tâm Phật tử ngày càng được rộng lòng từ, biết thương yêu muôn loài vạn vật, muốn thấy nó sống, không muôn thấy nó chết. Việc trai đàn bạt độ, giúp cho Phật tử mở rộng tầm nhìn ngòai thế giới chúng ta đang ở còn có rất nhiều thế giới khác, thế giới vô hình, hai hình, có chân, không chân, nhiều chân, những chúng sanh khổ đau rất cần đến chúng ta. Người Phật tử tập lần xả bỏ những vị kỷ, những ích kỷ cá nhân, những pháp bất thiện như ích kỷ, cá nhân, hung bạo, dữ dằn lần lượt sẽ không còn, mọi người thương yêu nhau tạo cho tình nghĩa xóm làng được nhân rộng, hận thù tiêu tan, sự an lành luôn xuất hiện như trong thế giới nhà Phật. Ba là, Đạo Phật tiếp nhận Phật sự trai đàn chẩn tế từ các vua chú thời nhà Đường, nhà Tống, đem đạo vào đời, gần gũi quần chúng, đạo đức tăng trưởng, giúp cho mọi người gần gũi nhau hơn, xóm làng an cư lạc nghiệp. II. Người tu không ăn đồ cúng vong, cúng cửu huyền? Nói chung là “người con Phật”, đây là sự tín ngưỡng có phần sâu sắc "mọi người đều nghĩ có người bên kia thế giới, có cuộc sống bên kia thế giới, nên khi cúng kiếng cho chư vị bên đó, người cúng nghĩ rằng mọi người bên kia thế giới đã “hưởng rồi”, trong dương gian thường nói là “hưởng mùi vị”, hay “hưởng hơi”, xúc thực. Do đó còn gì để mọi người bên đây ăn uống, nên nói không ăn là vậy. Đứng về mặt đạo đức, người “dương thế”, mắt thịt phàm phu không ăn đồ cúng vì thức ăn đó không phải dành cho người “dương thế”, mà dành cho người bên kia thế giới được cúng. Đây cũng là một trong các lễ của nghi lễ cúng kiếng. Nói thế thôi, chứ trong nhà của mỗi người Việt Nam nhà nào cũng có làm lễ giỗ, kỷ niệm những người đã khuất, gọi là cửu huyền thất tổ, những người được cúng giỗ đều được thờ chung với bàn thờ cửu huyền. Người Việt rất quan trọng lễ kỵ giỗ, thường là làm trâu, bò, làm heo, nhiều gà vịt để sau khi cúng ông bà xong, đãi bà con, xóm giềng. Làm gì thì làm, ngày cúng giỗ ông bà, mọi người không sợ tốn hao tiền của, nghĩa là gia chủ sẽ đem hết tấm lòng tốt của mình mà đãi khách, cho đến buổi chiều thức ăn không còn, gia quyến phải ăn thịt “xà bần”, tức là đồ ăn dư cũng không sao. Chư Tăng Ni không thọ dụng đồ cúng vong, cúng cửu huyền. Lý do chư Tăng Ni thuộc bậc thọ Thiên Nhơn cúng, bậc Ứng cúng, tức là người được cung cấp dưỡng nuôi, cúng dường. Muốn dâng cúng chư Tăng Ni người cúng hết sức cung kính mà lễ bái dâng cúng dường phẩm vật, thức ăn. Do vậy đồ cúng vong, cúng cửu huyền rồi không bao giờ đem dâng cho chư Tăng Ni, đó là do lòng thành kính bổn phận, có truyền thống lâu đời của Phật tử, nên có câu Tín chủ cúng dường Phật Pháp Tăng Chứng minh công đức nhờ Tam bảo Chú tâm nguyện độ thiện duyên nầy Tín chủ đời đời thêm phước báo. Sở cầu sở ỳ đều thành tựu Tín nhớ hạnh y nguyện trở về Nay mới gieo nhơn nhơn chánh giác Sau nầy chứng quả quả bồ đề. Bài học Khất sĩ Tại các chùa hằng ngày đều có lễ cúng vong, một là cúng thí thực, nhà Sư tụng Tiểu Mông Sơn thí gạo muối, nước sau thời công phu chiều thí muối gạo, nước trước chánh điện, hai là cúng vong những vị mới qua đời nơi nhà cửu huyền. Tất cả những thức ăn cúng tại nhà cửu huyền, mỗi món một ít, sau khi cúng xong, do thời gian cúng lâu quá, thức ăn nguội lạnh, nên đem hấp lại cho nóng và đơm thêm thức ăn mới vào, dành đãi cho tín đồ Phật tử và mọi người cùng ăn rất quý và trọng thị. Riêng chư Tăng hoặc chư Ni khi thọ thực, bắt buộc phải cúng quả đường dâng cúng lên Phật và cập Tăng, thọ thực tại trai đường, do đó chư Tăng Ni không bao giờ gặp thức ăn cúng vong, cúng cửu huyền. Lý do không ăn đồ cúng là vậy. Do nền nếp sinh họat của giáo đoàn và các tự viện, tịnh xá như trên, nên không có câu nói "người xuất gia không ăn đồ cúng.” Chúng ta cũng không nên gán ghép cho người xuất gia thành ngữ “chư Tăng Ni không ăn đồ cúng”, một câu nói có thể làm mất tinh thần lục hòa, chưa thật sự tôn kính chư tôn đức Tăng già và giáo đoàn của Phật. Thành kính là phước báo Quên mình là cội phước Cầu xin cho tín chủ Mau đắc quả thanh tịnh Pháp hội Trai đàn chẩn tế là nghi lễ có ảnh hưởng Mật giáo, thuộc Pháp hội Thủy lục – nghi thức cúng cô hồn, do ngài Bất Không Tam Tạng Pháp sư đời Đường ở Trung Quốc khởi truyền. > Ý nghĩa siêu độ, bạt độ trong nghi thức Mông Sơn thí thực Nguồn gốc pháp hội Trai đàn chẩn tế Trai đàn chẩn tế hay Giải oan bạt độ và chẩn tế là một nghi lễ ảnh hưởng Mật giáo, tên thường trong khoa giáo là Du già Diệm khẩu, dân gian thường gọi là Phóng diệm khẩu, người Việt chúng ta gọi vắn tắt là Pháp hội Trai đàn chẩn tế, thuộc Pháp hội Thủy lục – nghi thức cúng cô hồn, do ngài Bất Không Tam Tạng Pháp sư Kim Cương Trí đời Đường ở Trung Quốc khởi truyền với các phần chú và ấn làm cơ bản. Từ thời Tống trở về sau, các Pháp sư đã bổ sung thêm phần hiển giáo giáo lý được diễn đạt bằng lời có thể hiểu được. Trai đàn chẩn tế hay Giải oan bạt độ và chẩn tế là một nghi lễ ảnh hưởng Mật giáo. Về niên đại Pháp hội Trai đàn chẩn tế du nhập Việt Nam, hiện nay chưa thấy một tư liệu nào nói chắc chắn. Trong Việt Nam Phật giáo sử luận, tác giả Nguyễn Lang tức Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã cho rằng khoa nghi này do ngài Hứa Tông Đạo từ Trung Hoa truyền vào và quảng bá ở Việt Nam đầu thế kỷ XIII. Hiện nay chúng ta còn có một tư liệu do Trúc Lâm Đệ tam tổ Huyền Quang soạn “Pháp sư đạo tràng công văn cách thức thủy lục chư khoa”. Ở nước ta, thế kỷ III, ngài Khương Tăng Hội có soạn bộ “Nê hoàn phạn bái” Diễn nghi thức hành trì kinh Niết Bàn bằng lễ nhạc. Và sâu xa hơn, nghi thức này bắt nguồn từ thời Đức Phật, như đã đề cập trong Phật thuyết cứu bạt Diệm Khẩu Đà la ni kinh. Thế kỷ III, ngài Khương Tăng Hội có soạn bộ “Nê hoàn phạn bái” Diễn nghi thức hành trì kinh Niết Bàn bằng lễ nhạc. Và sâu xa hơn, nghi thức này bắt nguồn từ thời Đức Phật, như đã đề cập trong Phật thuyết cứu bạt Diệm Khẩu Đà la ni kinh. Với cái nhìn của người học Phật, ngoài cuộc sống của con người chúng ta ở dương thế còn có những người bị oan nghiệp trói buộc, những oan hồn bị bỏ rơi, không nơi thừa nhận…, trước tình cảnh đó, người học Phật không thể làm ngơ mà phải hành động để giúp đỡ. Với tâm từ bi, tình người phải được trải đều không phân biệt trong những người thân của mình. Có thể nói nôm na, trai đàn chẩn tế như một cuộc ủy lạo, và đối tượng ủy lạo ở đây là chúng sinh cõi âm, những cô hồn, oan hồn không nơi nương tựa, trong đó có cả người thân của mình vừa chết cũng như nhiều đời. Với cái nhìn của người học Phật, ngoài cuộc sống của con người chúng ta ở dương thế còn có những người bị oan nghiệp trói buộc, những oan hồn bị bỏ rơi, không nơi thừa nhận…, trước tình cảnh đó, người học Phật không thể làm ngơ mà phải hành động để giúp đỡ. Có những người khi còn sống có những tư duy, lời nói và việc làm không tốt, khi chết đi, chắc chắn sẽ nhận lấy những kết cục xấu. Người học Phật có quan niệm rằng phải giúp những người đó nhận ra chân lý bằng Phật pháp, lẽ phải để họ tự nhận ra và tự tháo gỡ những trói buộc, vượt thoát các nghiệp xấu. Pháp hội Trai đàn chẩn tế nhắm đến người đã khuất, nhưng tinh thần và đặc biệt là phần hiển giáo còn có ý nghĩa nhắn gởi đến người còn sống những đạo lý tốt đẹp để sống tốt hơn. Với tâm từ bi, tình người phải được trải đều không phân biệt trong những người thân của mình. Ý nghĩa của tên gọi “Du già niệm khẩu”, “Thủy lục Giải oan cứu bạt trai đàn”, "Pháp hội Trai đàn chẩn tế",... Du già là phiên âm từ Phạn ngữ, có nghĩa là tương ứng. Người hành giả hành trì khoa nghi này phải có sự tương ứng giữa thân, khẩu và ý miệng tụng chú, tay thể hiện ấn, ý quán tưởng. Diệm Khẩu là tên của một loài quỷ luôn trong tình trạng đói khát như miệng luôn đang rực lửa. Theo kinh điển, với tâm từ bi, hạnh nguyện cứu độ muôn loài đang ở trong hoàn cảnh khổ nạn, Bồ tát Quán Thế Âm đã hiện thân làm quỷ Diệm Khẩu trong lúc ngài A Nan nhập định, để ngài A Nam bạch lại với Đức Phật, mong Đức Phật phương tiện giảng pháp cứu độ cho những loài quỷ và rộng hơn là những người bị oan khiên trói buộc, những cô hồn không nơi nương tựa, bị bỏ rơi… Pháp hội Trai đàn chẩn tế nhắm đến người đã khuất, nhưng tinh thần và đặc biệt là phần hiển giáo còn có ý nghĩa nhắn gởi đến người còn sống những đạo lý tốt đẹp để sống tốt hơn. Hòa thượng Nhất Hạnh đã sử dụng những từ ngữ trong khoa giáo và sắp đặt lại theo chủ đề nhấn mạnh của Hòa thượng. Hòa thượng đã gọi tên pháp hội này là “Thủy lục giải oan bình đẳng cứu bạt trai đàn” và đã có sự giải thích trên trang nhà của Đạo Tràng Mai Thôn. Tên gọi pháp hội Thủy lục có từ thời Lương Võ Đế, với tên gọi đầy đủ là “Pháp giới thánh phàm thủy lục đại trai thắng hội”, do ngài Chí Công biên soạn mà hiện nay người Hoa vẫn hành trì. Thủy lục dưới nước và trên đất liền nhưng thực ra là bao gồm cả trên không nữa, nhưng vì theo quan niệm thông thường, cảnh giới ở dưới và trên mặt đất tạo oan nghiệp nặng hơn nên nhấn mạnh trong tên gọi như thế. Pháp hội Trai đàn chẩn tế có thể tổ chức vào bất cứ lễ hội nào, vào bất cứ mùa nào trong năm cũng được. Khái niệm “cô hồn” trong Pháp hội Trai đàn chẩn tế Các kinh sư ở Trung Hoa đại lục hành trì Pháp hội Trai đàn chẩn tế có nhiều điểm khác biệt, sự khác biệt rõ nhất là rất phong phú trong âm nhạc, giọng điệu, hình thức trang nghiêm hơn. Khoa nghi chẩn tế ở nước ta đậm đà bản sắc âm nhạc dân tộc và mang đặc điểm ba miền khá rõ. Qua sự chứng kiến pháp hội Thủy lục chẩn tế của quý thầy ở Trung Hoa, khoa nghi chẩn tế của Phật giáo Việt Nam có nét đặc trưng. Và đạo lực, sự trong sáng trong tâm linh của những vị hành giả hành trì pháp hội này chính là nội dung của pháp hội. Pháp hội Trai đàn chẩn tế Thường được tổ chức vào dịp nào? Pháp hội Trai đàn chẩn tế có thể tổ chức vào bất cứ lễ hội nào, vào bất cứ mùa nào trong năm cũng được. Nhưng không khí và tình cảnh quen thuộc với mọi người đó là trong dịp tiết tháng Bảy âm lịch, trùng hợp với hai sự tích đó là câu chuyện về ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ trong Phật giáo và ngày xá tội vong nhân của Đạo giáo. Theo quan niệm của Phật giáo, chiều tối là khoảng thời gian thích hợp với người âm. Thời gian của họ nên mình “nói chuyện” với họ sẽ dễ thuận hợp. Vào những dịp như báo hiếu tổ tiên, cha mẹ, thầy tổ…, người ta cũng có thể tổ chức Pháp hội Trai đàn chẩn tế nhằm cầu âm siêu dương thái, trong tinh thần từ bi của đạo Phật, không chỉ hạn hẹp cho người thân mà còn cầu cho tha nhân, các chúng sinh khác. Theo quan niệm của Phật giáo, chiều tối là khoảng thời gian thích hợp với người âm. Thời gian của họ nên mình “nói chuyện” với họ sẽ dễ thuận hợp. Miền Trung từ lâu đã được coi là khu vực vất vả khó khăn cho người dân bởi thời tiết khí hậu khắc nghiệt. Vậy nhưng, vào mỗi dịp năm mới về cũng như khắp nơi trên cả nước, người dân miền Trung ở mọi hoàn cảnh nào thì cũng vẫn náo nức đón Tết theo cách riêng của mình. Tết đến mang cho mọi người dân ở miền Trung một năm mới ấm no và khiến cho họ tạm quên đi cái vất vả khó khăn và cái khí trời mà họ đã trải qua trong một năm cũ. Nơi nào cũng vậy, phong tục Tết của mỗi miền mỗi khác, bạn đã biết gì về phong tục Tết của người miền Trung chưa? Hãy cùng Art Travel tìm hiểu xem nhé! 1. Chợ Tết Chợ Tết được mọi người dân coi là một nét văn hóa rất riêng tại Việt Nam, nhất là ở những vùng nông thôn miền Trung. Nhắc đến Tết là không thể nhắc đến chợ hoa. Thời điểm tổ chức chợ Xuân cũng là thời điểm mà mọi người dân đổ xô ra đường chọn lựa cho nhà mình những cây hoa đẹp nhất để đón năm mới. Một chợ hoa xuân ở miền Trung có thể sưu tập đầy đủ bất kỳ loài hoa nào từ Bắc đến Nam với vô số các loại vô cùng đa dạng về màu sắc, phong phú về kiểu dáng. Tuy nhiên cũng giống phương Nam, người miền Trung thường mua về những cây hoa mai vàng rực rỡ trong những ngày đón Tết. Chợ Tết miền Trung luôn tấp nập người mua kẻ bán với không khí nhộn nhịp 2. Mâm Cỗ Người miền Trung ăn cả bánh chưng và bánh tét vào dịp Tết thế nhưng chỉ cúng bánh chưng trong các mâm cỗ tiến cúng ở miếu điện trong cung đình. Vào những dịp nhà vua tế Trời ở đàn Nam Giao hoặc tế các vị Tiên đế ở Thế miếu. Còn mâm cơm để cúng ông bà trong 3 ngày Tết là mâm cỗ có nhiều món ăn được chế biến gồm đủ các thành phần. Dù cho những món ăn không được đa dạng và hấp dẫn nhưng những thói quen và truyền thống đón Tết của người miền Trung cũng rất độc đáo, hấp dẫn và góp phần đa dạng màu sắc ngày Tết nguyên đán của người Việt Nam. Mâm cỗ truyền thống đón Tết độc đáo của người miền Trung >>Xem thêm Lễ hội Pháo hoa Quốc Tế Đà Nẵng 2018 có gì mới? 4 lễ hội lớn tại miền Trung mà bạn không thể bỏ lỡ. Ngũ Quả Người dân quê miền Trung cũng không quá câu nệ hình thức ý nghĩa của mâm ngũ quả, bởi ta đều biết từ lâu miền Trung là miền khó khăn nhất trong các vùng miền Việt Nam. Trong mâm ngũ quả của người miền Trung, chủ yếu là có gì cúng nấy, chỉ cần ta có thành tâm dâng kính tổ tiên. Người miền Trung không hay dùng các loại chuối, trái cây có vị đắng, cay, mà chỉ chọn loại có vị ngọt, tròn, thơm và lâu hư úng để chưng mâm ngũ quả cho đẹp mắt, độc đáo, mong cầu an vui, hạnh phúc cho gia đình trong năm mới. Ngược lại, người miền Trung sẽ không chưng các loại cam hay quýt bởi người dân tin theo quan niệm "cam đành quýt đoạn". Mâm ngũ quả ngày Tết với quan niệm "cam đành quýt đoạn" của người miền Trung 4. Cúng Ông Táo Trong mâm cơm cúng ông Táo của người miền Trung thường chỉ có xôi, thịt heo luộc và ít hoa quả bởi người dân miền Trung có quan niệm kiêng kị cúng cá chép. Vậy nên, so với các nghi lễ vào ngày Tết của người miền Bắc thì ở miền Trung đơn giản hơn rất nhiều. Sau lễ cúng, ba ông Táo của các gia đình sẽ được thay mới, các ông Táo cũ được đem đi đặt ở một góc đình, miếu hoặc gốc cây đầu làng là những nơi linh thiêng, không ai dám xâm phạm. Thời gian cúng ông Táo tại miền trung là vào ngày 23 tháng Chạp. Mâm cúng ngày lễ tiễn đưa ông táo về trời 5. Ngày cuối cùng của năm Vào ngày cuối cùng của năm là ngày 30 Tết, người dân miền Trung vào buổi sáng sẽ đi đến mộ thắp hương cho ông bà tổ tiên và mời họ về ăn Tết với con cháu trong nhà. Sau đó sẽ đi sắm sửa những vật dụng cuối năm và làm mâm cúng Tất Niên. Người dân quan niệm rằng vào những ngày cuối năm nên trả hết những món nợ để tránh trường hợp chủ nợ đòi vào đầu năm sẽ mang vận xui đến cho gia đình. Vào chiều 30 Tết, nhà nhà đều làm lễ Tất Niên để tiễn năm cũ đón năm mới. Lễ này thường có một mâm ở bàn thờ gia tiên, một mâm ở giữa nhà và mâm thị thực đặt ở trước cổng. Sau khi cúng Tất niên, cả gia đình thường quây quần bên nhau trong không khí ấm ấp, rộn ràng cạnh nồi bánh chưng, bánh tét. Lễ cúng tất niên tiễn năm cũ đón năm mới của người miền Trung Miền Trung - Miền đất thân thương và đáng nhớ! BTV Trương Mẫn Vy

nghi thức chẩn tế miền trung