Khu mộ của vợ chồng bá hộ Xường không to lớn nguy nga, nép mình trong con hẻm nhỏ, ngôi mộ mang đậm nét kiến trúc cổ Trung Hoa. Ngôi mộ nằm trong nhà mồ ngay chính giữa có cửa vòm, hai bên cửa là cặp liễn chữ Hán. Mộ bằng đá xanh hình chữ nhật 3,4x2,2m, dày 0,3m, nhô cao
Lời bài hát Phượng Sài Gòn, ca sĩ: Trường Vũ, Mạnh Quỳnh, Trần Sang, Trần Sang & Phương Dung (VN), Tuấn Vũ, Phương Dung, Phương, Lý Hải- VN Ngôn ngữ chính của bài hát: Xưa thân nhau, tan lớp chung đường Anh mang hoa bôi má em hồng Để em hóa thân, nàng tiên xuống thăm trần
Sài Gòn năm xưa 120.000 đ (+VAT) 132.000 đ Tới nơi bán Sản phẩm đáng quan tâm Sài Gòn tạp pín lù - Vương Hòng Sến Giá từ 112.000 đ Có tất cả 4 nơi bán Cuốn sách và tôi - Vương Hồng Sển Giá từ 95.900 đ Có tất cả 5 nơi bán Ngôn ngữ văn hóa vùng đất Sài Gòn và Nam Bộ - TS. Lý Tùng Hiếu Giá từ 40.000 đ Có tất cả 2 nơi bán
1. Dẫn luận ngữ điệu Trung Quốc. Tài liệu dẫn luận ngôn ngữ China là một trong số những tài liệu cơ bản của sinh viên khi tham gia học ngữ điệu Trung Quốc. Đây cũng là tư liệu mà các bạn sinh viên chuyên ngành ngôn từ Trung hoàn toàn có thể tìm hiểu thêm khi viết báo
Thành phố có hơn 30 ngôi chùa của người Hoa, gắn liền với lịch sử định cư của Sài Gòn - Chợ Lớn xưa kia, kiến trúc mỗi chùa một sắc thái riêng theo năm nhóm ngôn ngữ Quảng Đông, Phước Kiến, Triều Châu, Hải Nam và Hẹ.
NGÔN NGỮ. Văn phạm và ngôn ngữ Việt; MƯA SÀI GÒN. Nguyễn Văn Ngưu . Tiếng nhạc vàng gọi từng âm xưa. Ánh đèn vàng nhạt nhòa đêm mưa. Ai sầu trong quán úa. MÙA MƯA Ở SÀI GÒN. Sài Gòn có khoảng 160 ngày mưa trong một năm. Nói về thời điểm mùa mưa ở Sài Gòn thì
Chợ có 1.437 sạp, 6.000 tiểu thương, 11 doanh nghiệp, với 4 cửa chính và 12 cửa phụ, ước tính đón 10.000 lượt khách mỗi ngày. Giữa những dòng khách vào chợ tấp nập, có thể bắt gặp "ngôi làng toàn cầu thu nhỏ" của mọi ngôn ngữ, màu da, quốc tịch trên thế giới
kiJKi2. Người ta nói rằng, tiếng Việt là một trong những thứ tiếng khó học nhất, khó hơn cả tiếng Anh – thứ ngôn ngữ mà nhiều người trẻ vẫn thường than thở là gai góc, “khó nuốt”, bởi tiếng Việt của chúng ta quá phong phú về từ và nghĩa của từ. Đó là chưa kể đến tiếng địa phương và cách nói riêng của từng vùng miền. Bấy nhiêu đó cũng đủ để khiến một người nước ngoài học tiếng Việt trầy trật. Trong đó, cách nói chuyện và sử dụng từ ngữ của người dân Nam Bộ, mà nổi bật nhất là người Sài Gòn, mang những nét đặc trưng khác biệt thôi thúc người ta muốn tìm tòi, khám phá nhất. Cách nói chuyện của người Sài Gòn xưa cũng khiến không ít người đi từ ngờ ngợ sang thích thú. Với những ai lần đầu đặt chân đến Sài Gòn, họ không chỉ bị choáng ngợp với lối sống của thành phố nhộn nhịp, nhiều màu sắc này, mà cách nói chuyện của người Sài Gòn cũng khiến không ít người đi từ ngờ ngợ sang thích thú. Đặc biệt nhất, chính là ngôn ngữ của Sài Gòn xưa, một trong những thứ văn hóa còn được lưu giữ trong “hơi thở” của Sài Gòn nay. Đó là những từ ngữ sẽ khiến người nghe lần đầu phải ngơ ngác vì không hiểu nghĩa. Người nghe nhiều tự khắc “nhiễm” từ bao giờ vào cách nói chuyện của mình. Đơn giản là vì sự mộc mạc, đời sống nhưng không kém phần hoa mĩ của chúng khiến người ta dễ yêu dễ thương. Giờ thì, chúng ta hãy cùng lên chuyến tàu ngược về thời gian cũ, để tìm hiểu về những từ ngữ từng thông dụng một thời của Sài Gòn xưa ấy nhé! 1. Âm binh nghịch ngợm, phá phách Lũ âm binh = Lũ nghịch ngợm Mấy đứa trẻ con nghịch ngợm. 2. Bo bo xì nghỉ chơi, không chơi cùng nữa Bo bo xì nó đi = Nghỉ chơi với nó đi 3. Bặc co tay đôi đánh nhau tay đôi Tụi mày dám bặc co tay đôi không? = Tụi mày dám đánh nhau tay đôi không? 4. Cà tàng bình thường, quê mùa Chiếc xe cà tàng = Chiếc xe xấu xí, quê mùa 5. Cà rá chiếc nhẫn Cà rá đẹp = Chiếc nhẫn đẹp 6. Chàng hảng chê hê banh chân ra ngồi Con gái con đứa gì mà ngồi chàng hảng chê hê hà! = Con gái con đứa gì mà banh chân ra ngồi à! Họ ngồi chồm hổm mua bán trên vỉa hè. 7. Chì giỏi Anh ấy học chì lắm đó = Anh ấy học giỏi lắm đó 8. Chồm hổm ngồi bó gối hoặc ngồi lâu một chỗ không nhúc nhích 9. Càm ràm nói nhiều, nói dai Lại tới giờ bà ấy càm ràm = Lại tới giờ bà ấy nói nhiều 10. Cà nhổng rảnh rỗi, không có việc gì làm Nó suốt ngày cà nhổng = Nó suốt ngày rảnh rỗi 11. Đá cá lăn dưa lưu manh Cái tụi đá cá lăn dưa = Cái tụi lưu manh 12. Đi bang bang đi ngênh ngang Qua đường mà nó đi bang bang = Qua đường mà nó đi nghênh ngang Những chiếc xe cứ bang bang trên đường phố. 13. Đặng được; Qua anh/chị Qua tính vậy em coi có đặng hông? = Anh/chị tính vậy em coi có được không? 14. Ghẹo chọc quê Anh ghẹo em quài = Anh chọc quê em hoài 15. Hổm rày từ mấy ngày nay Hổm rày trời mưa miết = Mấy ngày nay trời mưa miết 16. Làm nư lì lợm, khó bảo, cứng đầu Nó làm nư lắm! = Nó cứng đầu lắm! 17. Lên hơi, lấy hơi lên bực tức Nghe ông nói mà tui muốn lên hơi = Nghe ông nói mà tui thấy bực 18. Liệu hồn coi chừng Mày cứ liệu hồn đấy! = Mày cứ coi chừng đấy! 19. Lô đồ giả, đồ xấu, đồ kém chất lượng Cái quạt này là đồ lô phải hông? = Cái quạt này là đồ giả phải không? 20. Mát trời ông địa thoải mái Cứ xài mát trời ông địa đi = Cứ dùng thoải mái đi 21. Mình ên một mình Đi ăn mình ên hả? = Đi ăn một mình? 22. Quê xệ xấu hổ Tự nhiên quê xệ hà! = Tự nhiên xấu hổ à! 23. Tầm xàm bá láp vớ vẩn Chuyện tầm xàm bá láp = Chuyện vớ vẩn Đừng quan tâm chuyện tầm xàm ba láp. 24. Tầy quầy, tùm lum là la bừa bãi, lộn xộn, không ngăn nắp Con gái gì mà ăn ở tầy quầy quá! = Con gái gì mà ăn ở lộn xộn quá! 25. Thèo lẻo mách lẻo Người gì mà cứ ưa thèo lẻo = Người gì mà cứ thích mách lẻo 26. Thưa rĩnh thưa rang lưa thưa, lác đác Giờ này rồi mà người còn thưa rĩnh thưa rang = Giờ này rồi mà người còn lác đác 27. Thí cho không, miễn phí, bỏ Thôi thí cho nó đi = Thôi cho không nó đi/Thôi bỏ đi 28. Xảnh xẹ xí xọn, làm điệu Cô ấy suốt ngày xảnh xẹ thôi! = Cô ấy suốt ngày xí xọn, làm điệu thôi! Những người phụ nữ xảnh xẹ trên phố. 29. Xẹt ra – xẹt vô đi ra đi vào rất nhanh Ông ấy xẹt vô xẹt ra rồi chẳng thấy đâu nữa = Ông ấy đi vào đi ra rất nhanh rồi chẳng thấy đâu nữa 30. Xì xà xì xầm nói to nhỏ Có chuyện gì mà họ cứ xì xà xì xầm suốt = Có chuyện gì mà họ cứ nói to nhỏ suốt Những từ ngữ vừa được giải nghĩa trên đây chỉ là số ít trong kho tàng từ ngữ phong phú của người dân Nam Bộ nói chung và người Sài Gòn nói riêng. Có những từ vẫn còn dùng thông dụng cho đến ngày nay qua cách nói chuyện giữa các thế hệ trong gia đình với nhau. Với nhiều người, đó thực sự là cách nói dân dã nhưng không kém phần thú vị, còn bạn, bạn cảm nhận thế nào về những ngôn từ từng ăn sâu vào nếp sống của một thời này? Ảnh Internet
Sang đến thời kỳ “một trăm năm đô hộ giặc Tây”. Việt Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng đã trở thành thuộc địa của Pháp. Cũng vì thế, tiếng Pháp đã có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa, xã hội của người Việt. Tiếng Pháp được sử dụng trong các văn bản, giấy tờ của Chính phủ Bảo hộ và trong giảng dạy ở nhà trường, bên cạnh đó là các loại sách báo thâm nhập đời sống thường ngày của người dân. Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt là linh mục Alexandre de Rhodes tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La năm 1651, với mục đích dùng ký tự Latinh làm nền tảng cho tiếng Việt. “Latinh hóa” chữ Việt ngày càng được phổ biến để trở thành Quốc ngữ, chịu ảnh hưởng bởi những thuật ngữ, từ ngữ mới của ngôn ngữ Tây phương, nổi bật nhất là văn hóa Pháp. Khi chiếm được ba tỉnh Nam Bộ, người Pháp đã nắm trong tay một công cụ vô cùng hữu hiệu để truyền bá văn hoá đồng thời chuyển văn hoá Nho giáo sang văn hoá Phương Tây. Tờ Gia Định Báo là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1865, khẳng định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc Ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam sau này. Linh mục Alexandre de Rhodes. Đối với người bình dân, việc tiếp nhận tiếng Pháp đến một cách rất tự nhiên. Người ta có thể nói “Cắt tóc, thui dê” để chỉ ngày Quốc khánh Pháp 14/7, Quatorze Juliet. Người ta có thể dùng tiếng Tây “bồi” nhưng lại không cảm thấy xấu hổ vì vốn liếng tiếng Pháp của mình vốn chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Để tả con cọp, người ta có thể dài dòng văn tự “tí ti giôn, tí ti noa, lủy xực me-xừ, lủy xực cả moi”. Diễn nôm câu này là một chút màu vàng jaune, một chút màu đen noir, nó ăn thịt ông monsieur, nó ăn thịt cả tôi moi. Nhân đây cũng xin nói thêm về những đại danh từ nhân xưng như toa anh, mày – toi, moa hay mỏa tôi, tao – moi, en hay ẻn cô ấy, chị ấy – elle, lúy hay lủy anh ấy, hắn – lui, xừ hay me-xừ ông, ngài – monsieur… Học trò trường Tây, những nhà trí thức khoa bảng hay cả những kẻ tỏ ra “thời thượng” ngày xưa thường dùng những đại từ này. Cũng vì thế có một câu mang tính cách châm chọc “Hôm qua moa đi xe lửa, buồn tiểu quá nên moa phải… trên đầu toa” toa ở đây có 2 nghĩa toa xe lửa nhưng cũng có ý là toi anh trong tiếng Pháp. Nói thêm về hỏa xa, người Pháp xây dựng đường xe lửa đầu tiên ở Việt Nam tại Sài Gòn từ năm 1881. Đây là đoạn đường ray rail từ Cột cờ Thủ Thiêm đến bến xe Chợ Lớn, dài 13km. Mãi đến năm 1885 chuyến xe lửa đầu tiên mới được khởi hành và một năm sau, tuyến đường Sài Gòn-Mỹ Tho dài 71km bắt đầu hoạt động. Sau đó, mạng lưới đường sắt được xây dựng trên khắp lãnh thổ Việt Nam, dùng kỹ thuật của Pháp với khổ đường ray 1 mét. Tính đến năm 1975 miền Nam có khoảng đường ray nhưng vì chiến cuộc nên chỉ được sử dụng khoảng 60%. Nhà ga cũng có xuất xứ từ tiếng Pháp gare. Ga là công trình kiến trúc làm nơi cho tàu hoả, tàu điện hay máy bay đỗ để hành khách lên xuống hoặc để xếp dỡ hàng hoá. Từ sự vay mượn này ta có thêm những từ ngữ như sân ga, trưởng ga, ga chính, ga xép… Nhân nói về ga tưởng cũng nên nhắc lại động từ bẻ ghi aiguiller tức là điều khiển ghi aiguille cho xe lửa chuyển sang đường khác. Trong tiếng Việt, bẻ ghi còn có nghĩa bóng là thay đổi đề tài, chuyển từ chuyện mình không thích sang một đề tài khác. Xe lửa ngày xưa. Có những từ ngữ xuất xứ từ tiếng Pháp nhưng vì lâu ngày dùng quen nên người ta cứ tưởng chúng là những từ “thuần Việt”. Chẳng hạn như cao su caoutchouc, một loại cây công nghiệp được người Pháp du nhập vào Việt Nam qua hình thức những đồn điền tại miền Nam. Ngôn ngữ tiếng Việt rất linh động trong cách dùng từ ngữ cao su qua các biến thể như giờ cao su giờ giấc co dãn, không đúng giờ, kẹo cao su chewing-gum… Nhà băng banque là một chữ quen dùng trong ngôn ngữ hàng ngày còn xà bông cũng là loại chữ dùng lâu ngày thành quen nên ít người để ý xuất xứ của nó là từ tiếng Pháp, savon. Ở miền Bắc, xà bông được cải biên thành xà phòng, là chất dùng để giặt rửa, chế tạo bằng cách cho một chất kiềm tác dụng với một chất béo. Nổi tiếng ở Sài Gòn xưa có xà bông Cô Ba của Trương Văn Bền, dùng dầu dừa làm nguyên liệu chính. Chúng ta thấy ngôn ngữ Việt vay mượn từ tiếng Pháp trong rất nhiều lãnh vực. Về ẩm thực, tiếng Việt thường mượn cả cách phát âm đến tên của các món ăn có xuất xứ từ phương Tây. Vào nhà hàng, người phục vụ đưa ra mơ-nuy thực đơn – menu trong đó có những món như bít-tết chữ bifteck của Pháp lại mượn từ nguyên thủy tiếng Anh – beefsteak, những thức uống như bia rượu bia – bière, được chế biến từ cây hốt bố hay còn gọi là hoa bia – houblon, rượu vang rượu nho – vin… Về thịt thì có xúc-xích saucisse, pa-tê paté, giăm-bông jambon, thịt phi-lê thịt thăn, thịt lườn – filet. Các món ăn thì có ra-gu ragout, cà-ri curry… Khi ăn xong, khách xộp còn cho người phục vụ tiền puộc-boa tiền thưởng – pourboire. Ngày nay từ boa hay bo được dùng phổ biến với ý nghĩa cho tiền thưởng, hay còn gọi là tiền phong bao hoặc tiền phục vụ. Từ rất lâu, ở Sài Gòn xuất hiện các loại bánh mì theo kiểu Pháp, miền Bắc lại gọi là bánh tây với hàm ý du nhập từ Pháp. Có nhiều loại bánh đặc biệt như bánh mì ba-ghét loại bánh mì nhỏ, dài – baguette, bánh pa-tê-sô một loại bánh nhân thịt, ăn lúc nóng vừa dòn vừa ngon – pathé chaud, bánh croát-xăng hay còn gọi là bánh sừng bò – croissant. Người Sài Gòn thường ăn sáng với bánh mì kèm theo nhiều kiểu chế biến trứng gà như ốp-la trứng chỉ chiên một mặt và để nguyên lòng đỏ – oeuf sur le plat, trứng ốp-lết trứng tráng – omelette hoặc trứng la-cóc trứng chụng nước sôi, khi ăn có người lại thích thêm một chút muối tiêu – oeuf à la coque. Bánh “pathé chaud”. Món không thể thiếu trong bữa ăn sáng là cà phê café. Cà phê phải được lọc từ cái phin filtre à café mới đúng điệu. Người miền Bắc ít uống cà phê nên sau năm 1975 vào Sài Gòn nhiều người đã mô tả cái phin cà phê một cách rất “gợi hình” “cái nồi ngồi trên cái cốc”. Ngôn ngữ về trang phục cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tiếng Pháp. Bình thường hàng ngày người ta mặc áo sơ-mi chemise, cổ tay có cài khuy măng-sét manchette. Khi đi tiệc tùng hoặc hội họp thì mặc áo vét vest hay bộ vét-tông veston kèm theo chiếc cà-vạt cravate trên cổ áo sơ mi. Trời hơi lạnh có thể mặc bên trong áo vét một chiếc gi-lê gilet và hai tay mang găng gants cho ấm. Ngay cả quần áo lót bên trong cũng mượn từ tiếng Pháp. Phụ nữ thì mang xú-chiêng nịt ngực – soutien-gorge và xì-líp slip. Nam giới thì mặc áo may-ô maillot bên trong áo sơ-mi. Mặc quần thì phải có xanh-tuya dây nịt – ceinture và khi trời nóng thì mặc quần sóc quần ngắn, tiếng Pháp là short được mượn từ tiếng Anh shorts. Trang phục có thể được may từ các loại cô-tông vải bông – coton hoặc bằng len làm từ lông cừu – laine. Trên đầu có mũ phớt feutre, một loại mũ dạ, mũ be-rê béret, một loại mũ nồi… dưới chân là đôi dép săng-đan sandales, sau này người Sài Gòn lại chế thêm dép sa-bô sabot nguyên thủy tiếng Pháp là guốc. Mũ phớt. Đi lính cho Tây thì được phát đôi giày săng-đá giày của lính – soldat. Loại lính nhảy dù, biệt kích ngày nay là đặc công gọi là còm-măng-đô commando. Một đoàn xe quân sự có hộ tống được gọi là công-voa convoi, trông cứ như con voi trong tiếng Việt!. Thuật ngữ quân sự chỉ những công sự xây đắp thành khối vững chắc, dùng để phòng ngự, cố thủ một nơi nào đó được gọi là lô-cốt có xuất xứ từ blockhaus. Ngày nay, chữ lô cốt còn được dùng chỉ những nơi đào đường, thường được rào chắn, vây kín mặt đường, cản trở lưu thông. Xưa kia cảnh sát được gọi qua nhiều tên mã-tà xuất xứ từ tiếng Pháp matraque, có nghĩa là dùi cui, sen đầm gendarme, phú-lít police, ông cò commissaire… Lực lượng thuế quan ngày nay gọi là hải quan được gọi là đoan douane, lính đoan còn có nhiệm vụ đi bắt rượu lậu là một mặt hàng quốc cấm thời Pháp thuộc. Nông phẩm thì có đậu cô-ve còn gọi tắt là đậu ve – haricot vert, đậu pơ-tí-poa đậu Hòa Lan có hột tròn màu xanh – petits-pois, bắp sú bắp cải – chou, súp-lơ bông cải – chou-fleur, xà lách salade, cải xoong còn gọi là xà lách xoong – cresson, cà-rốt carotte, ác-ti-sô artichaut… Tiếng Tây cũng đi vào âm nhạc. Từ điệu valse, tango… đến đàn piano dương cầm, violon vĩ cầm, kèn harmonica khẩu cầm… Ở các đăng-xinh khiêu vũ trường – dancing luôn có ọc-két ban nhạc – orchestre chơi nhạc và xuất hiện một nghề mới gọi là ca-ve gái nhẩy – cavalière. Ngày nay người ta dùng từ ngữ ca-ve với ý chỉ tất cả những cô gái làm tiền, khác hẳn với ý nghĩa nguyên thủy của nó. Người phương Tây dùng nhiều sữa và các sản phẩm của sữa nên đã đưa vào ngôn ngữ tiếng Việt những từ ngữ như bơ beurre, pho-mát fromage, kem crème… Nổi tiếng ở Sài Gòn có hai nhãn hiệu sữa Ông Thọ Longevity và Con Chim Nestlé như đã nói ở phần trên. Có người cắc cớ thắc mắc, đàn ông mà lại là ông già thì làm sao có sữa? Xin thưa, hình tượng “Ông Thọ chống gậy” trên hộp sữa chỉ muốn nói lên tuổi thọ longévité của người dùng sữa. Trường hợp của Nestlé cũng vậy. Con Chim thì làm gì có sữa? Thực ra thì logo của Nestlé là một tổ chim gồm chim mẹ và 2 chim con nhưng người Việt mình cứ gọi là sữa Con Chim cho tiện. Logo của Nestlé. Thế mạnh của Nestlé là các sản phẩm sữa bò khác như Núi Trắng Lait Mont-Blanc và sữa bột Guigoz. Ngày xưa, những gia đình trung lưu đều nuôi con bằng sữa bột Guigoz. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác khi ăn vụng một thìa Guigoz của em út vừa bùi, vừa béo, những hạt sữa nhỏ ly ty như tan ngay trong miệng. Sữa bột Guigoz được chứa trong một cái lon bằng nhôm, cao 15cm, có sọc ngang, bên trong lại có sẵn thìa để giúp người pha dễ đo lường. Khi dùng hết bột, các bà nội trợ không vứt lon như những loại sữa khác vì lon Guigoz có nắp đậy rất kín nên được “tái sử dụng” trong việc đựng đường, muối, tiêu, bột ngọt… Những người thiết kế lon Guigoz chắc hẳn chưa bao giờ nghĩ cái lon lại có nhiều công dụng sau khi sữa bột ở bên trong đã dùng hết. Lon Guigoz đã theo chân những tù nhân cải tạo như một vật “bất ly thân”. Những người “tưởng đi học có 10 ngày” mang theo lon Guigoz để đựng các vật dụng linh tinh như bàn chải, kem đánh răng, vài loại thuốc cảm cúm, nhức đầu để phòng khi cần đến. Lon Guigoz. Lon Guigoz thường được chúng tôi gọi tắt là “lon gô”. Học tập càng lâu lon gô càng tỏ ra “đa năng, đa hiệu”. Muốn múc nước từ giếng lên thì dùng gô làm gàu, buổi sáng thức dậy dùng gô làm ly đựng nước súc miệng, nhưng gô còn tỏ ra đặc biệt hữu ích khi dùng như một cái nồi để nấu nước, thổi cơm, luộc măng lấy ở trên rừng, luộc rau, luộc khoai mỳ “chôm chỉa” khi đi “tăng gia sản xuất”… nghĩa là làm được tất cả mọi công việc bếp núc. Chúng tôi ở trong một căn cứ cũ của Sư đoàn 25 tại Trảng Lớn Tây Ninh nên có cái may là còn rất nhiều vỏ đạn 105 ly. Người cải tạo săn nhặt những vỏ đạn về và chế thành một cái lò “dã chiến” và lon gô để vào trong lò vừa khít, tưởng như 2 nhà thiết kế vỏ đạn và lon gô đã ăn ý với nhau “từng centimét” ngay từ khâu thiết kế ban đầu! Ai chưa có lon gô thì nhắn gia đình tìm để đựng đồ ăn mỗi khi được vào trại “thăm nuôi”. Sau 30/4/75 lon gô trở nên hữu dụng vì công nhân, sinh viên, học sinh dùng lon gô để đựng cơm và thức ăn cho bữa trưa. Người Sài Gòn thường đeo một cái túi đựng lon gô khi đi làm, một hình ảnh không thể nào quên của “thời điêu linh” sau 1975. Tình cờ tôi bắt gặp trang web của Pháp quảng cáo bán lon sữa Guigoz cho những người sưu tầm, giá lên tới 15 euro cho một lon Guigoz xưa, dĩ nhiên là chỉ có lon không, không có sữa! Lon Guigoz. Người Pháp khi đến Việt Nam mang theo cả chiếc ô-tô xe hơi – auto, automobile. Xe xưa thì khởi động bằng cách quay ma-ni-ven manivelle đặt ở đầu xe, sau này tân tiến hơn có bộ phận đề-ma-rơ khởi động – démarreur. Sau khi đề demarrer, xe sẽ nổ máy, sốp-phơ người lái xe – chauffeur sẽ cầm lấy vô-lăng bánh lái – volant để điều khiển xe… Về cơ khí thì người Sài Gòn dùng các từ ngữ như cờ-lê chìa vặn – clé, mỏ-lết molete, đinh vít vis, tuốc-nơ-vít cái vặn vít – tournevis, công-tơ thiết bị đồng hồ – compteur, công tắc cầu dao – contact… Bây giờ nói qua chuyện xe đạp cũng có nhiều điều lý thú. Chiếc xe đạp trong ngôn ngữ Việt mượn rất nhiều từ tiếng Pháp. Trước hết, phía trước có guy-đông thanh tay lái – guidon, dưới chân có pê-đan bàn đạp – pedale, săm ruột bánh xe – chambre à air và phía sau là bọc-ba-ga để chở hàng hóa – porte-bagages. Chi tiết các bộ phận trong xe đạp cũng… Tây rặc. Có dây sên dây xích – chaine, có líp bộ phận của xe đạp gồm hai vành tròn kim loại lồng vào nhau, chỉ quay tự do được theo một chiều – roue libre, rồi phanh thắng – frein ở cả bánh trước lẫn bánh sau. Thêm vào đó còn có các bộ phận bảo vệ như gạc-đờ-bu thanh chắn bùn – garde-boue và gạc-đờ-sên thanh che dây xích – garde-chaine. Xe đạp Mercier ngày xưa có gắn ống bơm, dynamo và cả lon Guigoz. Mỗi chiếc xe đạp xưa còn trang bị một ống bơm pompe để phòng khi lốp xe xuống hơi. Bên cạnh đó người ta gắn một chiếc đy-na-mô dynamo – bộ phận phát điện làm sáng đèn để đi vào ban đêm. Tôi còn nhớ khi tháo tung một cái dynamo cũ thấy có một cục man châm gắn vào một trục để khi trục quay sẽ sinh ra điện. Hồi xửa hồi xưa, đi xe đạp không đèn vào ban đêm rất dễ bị phú-lít thổi phạt nên nếu xe không đèn, người lái phải cầm bó nhang thay đèn! Sài Gòn xưa có các nhãn hiệu xe đạp mổi tiếng như Peugoet, Mercier, Marila, Follis, Sterling… Đó là những chiếc xe đã tạo nên nền “văn minh xe đạp” của những thế hệ trước và một nền “văn hóa xe đạp” còn lưu lại trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Sài Gòn xưa. Nguyễn Ngọc Chính Đăng lại có chỉnh sửa từ bài viết cùng tên Đăng trên diễn đàn Hội quán Phi Dũng
Nguyễn Ngọc Chính Có thể nói, bất kỳ một ngôn ngữ trên trái đất này cũng đều trải qua hình thức vay mượn từ các ngôn ngữ khác. Ảnh hưởng về văn hóa là một trong những tác động chính trong việc vay mượn về ngôn ngữ. Ngoài ra, còn phải kể đến các yếu tố khác như địa lý, lịch sử, chính trị và xã hội trong việc hình thành ngôn ngữ vay mượn. Miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng vốn là một “melting pot”, dễ dàng hòa nhập với các nền văn hóa khác từ tiếng Tàu, tiếng Pháp và cuối cùng là tiếng Anh. Ở đây, xin được bàn về ảnh hưởng của Trung Hoa mà ta thường gọi nôm na là Tàu cùng những biến thể như Người Tàu, Ba Tàu, Các Chú, Khách Trú và Chệt hoặc Chệc. Gia Định Báo số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16/2/1870 giải thích “…An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu Từ Ba-Tàu có cách giải thích như sau Ba có nghĩa là ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống vùng Cù Lao Phố Đồng Nai, Sài Gòn-Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu…” “…Kêu Các-chú là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy…” “… Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc…” Cách giải thích thuật ngữ nói trên của Gia Định Báo từ thế kỷ thứ 19 được coi là tạm ổn vì đây là một trong những tài liệu xưa có xuất xứ từ miền Nam. Theo Lê ngọc Trụ trong Tầm nguyên Tự điển Việt Nam, chệc hay chệt là tiếng Tiều gọi chữ thúc, nghĩa là “em trai của cha”. Người bình dân gọi Chệc để chỉ chung người Hoa. Người Quảng Đông cho là gọi như thế có ý miệt thị, người Triều Châu trái lại, chấp nhận vì họ được tôn là chú. Ở miền Nam, “các chú” Quảng làm ăn buôn bán khá hơn “các chú chệc” người Tiều lam lũ trong nghề làm rẫy, tằn tiện nên không biết có phải vì vậy mới có câu Quảng Đông ăn cá bỏ đầu Tiều Châu lượm lấy đem về kho tiêu ! Người Tiều lại chê dân Quảng không biết ăn cá. Họ nói món cháo cá Tiều khi ăn có vị ngọt đặc biệt nhờ chỉ rửa sạch bên ngoài, giữ lại nguyên si vảy, đầu và cả ruột ! Dân Tiều ở miền Nam “chuyên trị” những món cá chim hấp, bò viên, tôm viên, ruột heo nấu cải chua… và nhất là món hủ tíu Tiều Châu. Người ta còn dùng các từ như Khựa, Xẩm, Chú Ba… để chỉ người Tàu, cũng với hàm ý miệt thị, coi thường. Tuy nhiên, có sự phân biệt rõ ràng trong cách gọi phụ nữ Tàu được gọi là thím xẩm còn nam giới thì lại là chú ba. Năm 1956, chính phủ Ngô Đình Diệm của nền Đệ nhất Cộng hòa 1955-1963 đã có một quyết định khá táo bạo, buộc tất cả Hoa kiều phải nhập quốc tịch Việt Nam, nếu không sẽ bị trục xuất. Thương nghiệp tại miền Nam sau thời Pháp thuộc phần lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều. Vì vậy, chính phủ cố tạo sức mạnh cho doanh nhân Việt bằng cách hạn chế quyền lợi của người Hoa. Đạo luật 53 cấm ngoại kiều nhắm vào Hoa kiều tham gia 11 nghề liên quan đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn… được chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành vào tháng 9/1956. Đạo luật này đã làm xáo trộn kinh tế trong nước nhưng đã có tác động mạnh đến nền công thương nghiệp của người Việt vào thời kỳ đó. Đa số người Hoa đã nhập tịch Việt, tính đến năm 1961, trong số 1 triệu Hoa kiều ở miền Nam chỉ còn khoảng người giữ lại Hoa tịch. Người Tàu kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc ba lĩnh vực quan trọng sản xuất, phân phối và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện… và gần như đạt được độc quyền thương mại 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập cảng. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường. Cũng vì thế, ở Sài Gòn có câu mỉa mai “Sống phá rối thị trường, chết chật đường chật sá” để ám chỉ người Tàu khi còn sống lũng đoạn nền kinh tế và đến lúc chết lại tổ chức những đám ma một cách rình rang. Cũng như người Tàu ở Hồng Kông và Macao, người Tàu ở miền Nam đa số nói tiếng Quảng Đông Cantonese chứ không nói tiếng Quan Thoại Mandarin mà ngày nay gọi là tiếng Phổ Thông. Cũng vì thế, ngôn ngữ Sài Gòn xưa vay mượn từ tiếng Quảng Đông được khoảng 71 triệu người Hoa trên khắp thế giới sử dụng. Người Sài Gòn thường ví những người “ăn nói không đâu vào đâu” là “nói hoảng, nói tiều” thực ra là “nói tiếng Quảng Đông, nói tiếng Triều Châu”. Điều này cho thấy tiếng Quảng Đông xuất hiện rất nhiều trong ngôn ngữ miền Nam trước năm 1975, kế đến mới là tiếng Triều Châu. Trên thực tế, người Tàu có đến 5 nhóm Hoa kiều, được gọi là Ngũ Bang tại miền Nam Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia người Hẹ. Trong lĩnh vực ẩm thực của Sài Gòn xưa, ảnh hưởng của người Tàu gốc Quảng Đông rất đậm nét. Nói cho công bằng, bên cạnh số đông các tửu lầu, cao lâu của người Tàu gốc Quảng Đông, ở Sài Gòn – Chợ Lớn cũng có lai rai một số tiệm Tàu khác như tiệm Hủ tíu Triều Châu ở đối diện Chợ Lớn Mới, Cơm Gà Hải Nam ở Chợ An Đông hay đường Tôn Thọ Tường. Theo nhà văn Bình-nguyên Lộc, thời tiền chiến trước 1945, các phổ ky trong tiệm Tàu còn có kiểu kêu vào bếp những món ăn thực khách gọi y như người ta gọi “lô-tô” bingo, dĩ nhiên bằng tiếng Quảng Đông – Bàn số 3, bên Đông, bà lùn, cà phê ít, sữa nhiều ! – Bàn số 4, bên Đông, hủ tíu không giá. – Bàn số 1, bên Tây, thêm bánh bao ngọt thằng nhỏ. – Bàn số 2, bên Tây, ông già râu, cà phê đen ly lớn, xíu mại to. Chủ tiệm thường biết rõ tính nết và sở thích ăn uống của mỗi khách quen, nên họ thường đặt cho mỗi người một cái tên thuộc loại… “hỗn danh”. Khi khách ăn xong lại quầy trả tiền thì phổ ky rao những câu hóm hỉnh bằng tiếng Quảng Đông, chẳng hạn như – Ông đầu hói mang khăn rằn, một đồng hai cắc. – Bà hai mập, ba đồng sáu cắc. – Ông chủ ốm nón nỉ, tám đồng tư, hai bánh bao mang về. Nổi tiếng tại Sài Gòn xưa có các nhà hàng Đồng Khánh, Arc-en-ciel, Soái Kình Lâm, Bát Đạt, Á Đông, Đại La Thiên, Triều Châu… Cơm Tàu thường được để trong những cái thố nhỏ nên được gọi là cơm thố, chỉ là cơm trắng dùng chung với các món ăn nhưng không nấu bằng nồi mà chỉ hấp cách thủy để cho chín gạo. Thông thường một người ăn chừng một hoặc hai thố là no. Có người lại ca tụng ăn cơm thố chỉ cần chan chút hắc xì dầu nước tương đen pha với dấm Tiều thêm chút ớt là đã thấy ngon rồi. Nghĩ lại cũng đúng nhưng nếu ăn kiểu này thì những tiệm nổi tiếng như Siu Siu bên hông chợ An Đông hay Siu Siu ở đầu hẻm Nguyễn Duy Dương hình như ở số nhà 61 chắc đã dẹp tiệm từ lâu rồi. Cơm chiên Dương Châu cũng là món ăn du nhập từ Quảng Đông. Nhiều người rất khoái cơm chiên nhưng ít người biết từ khởi thủy đây chỉ là các thức ăn dư thừa được chế biến lại. Cũng thuộc loại thức ăn dư thừa có món tài páo bánh bao. Bạn không tin ư ? Nhân bánh bao là thịt vụn được xào lên, trộn với lạp xưởng và trứng sau này được thay bằng trứng cút kể từ khi dịch cút lan truyền khắp Sài Gòn, nhà nhà nuôi cút, người người ăn trứng cút. Vỏ bánh bao được làm bằng bột mì, sau khi hấp chín bột nở phình ra trông thật hấp dẫn. Có người bảo cơm chiên Dương Châu và bánh bao thể hiện tính tằn tiện và tiết kiệm của người Tàu, không bỏ phí thức ăn thừa! Nói cho vui vậy thôi chứ từ cơm chiên, bánh bao đến các loại sơn hào hải vị như bào ngư, vi cá, yến sào… đều đòi hỏi cách chế biến, đó là nghệ thuật nấu ăn. Các tiệm “cà phê hủ tíu” của Tàu lan rộng ra nhiều nơi chứ không riêng gì trong Chợ Lớn. Khắp Sài Gòn, Gia Định rồi xuống đến Lục Tỉnh đi đâu cũng thấy những xe mì, xe hủ tíu, chỉ nhìn cách trang trí cũng có thể biết được chủ nhân là người Tàu. Họ có kiểu cách riêng biệt với những chiếc xe bằng gỗ, thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên xe là những tấm kính tráng thủy có vẽ hình các nhân vật như Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi, Triệu Tử Long… trong truyện Tam Quốc. Ăn điểm tâm thì có mì, hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại… Khách thường gọi một ly xây chừng, đó là một ly cà phê đen nhỏ hay tài phế cà phê đen lớn. Sang hơn thì gọi phé nại cà phê sữa hoặc bạt xỉu nhiều sữa nhưng ít cà phê với sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ hoặc Con Chim. Có người lại dùng bánh tiêu hoặc dầu-cha-quẩy nhúng vào cà phê để ăn thay cho các món điểm tâm đắt tiền. Vào một quán nước bình dân trong Chợ Lớn ta có thể gọi một ly suỵt xủi và người phục vụ đem ra một ly đá chanh mát lạnh. Tại các tiệm “cà phê hủ tíu” luôn luôn có bình trà để khách có thể nhâm nhi nhậm xà uống trà trước khi gọi phổ ky đến để thảy xu tính tiền. Nhậm xà còn có nghĩa là tiền hối lộ, tiền trà nước. Người sành điệu còn “xổ” một tràng “broken Cantonese” “Hầm bà làng kỵ tố ?” Hết thảy bao nhiêu tiền ?. Những từ ngữ vay mượn của người Tàu dùng lâu hóa quen nên có nhiều người không ngờ mình đã sử dụng ngôn ngữ ngoại lai. Chẳng hạn như ta thường lì xì cho con cháu vào dịp Tết hoặc lì xì cho thầy chú cảnh sát để tránh phiền nhiễu, cũng là một hình thức hối lộ. Lạp xưởng người Bắc gọi là Lạp xường là một món ăn có nguồn gốc từ bên Tàu, tiếng Quảng Châu là lạp trường ngày lễ Tất niên và ruột heo khô. Cũng vì thế vào dịp giáp Tết các cửa hàng nổi tiếng như Đồng Khánh, Đông Hưng Viên trưng bày la liệt các loại lạp xưởng, nào là lạp xưởng mai quế lộ, lạp xưởng khô, lạp xưởng tươi… Chế biến lạp xưởng là nghề của các Chú Ba trong Chợ Lớn. Lạp xưởng được làm từ thịt heo nạc và mỡ, xay nhuyễn, trộn với rượu, đường rồi nhồi vào ruột heo khô để chín bằng cách lên men tự nhiên. Lạp xưởng màu hồng hoặc nâu sậm vì chắc hẳn có thêm chút bột màu. Lạp xưởng ở Sóc Trăng thuộc miền Lục tỉnh cũng rất nổi tiếng cùng với món bánh pía, một món đặc biệt của người Tiều gốc từ Triều Châu. Đôi khi bánh pía còn được gọi là bánh lột da, thực chất có nguồn gốc từ bánh trung thu theo kiểu Tô Châu nhưng khác với loại bánh trung thu mà ta thường thấy. Đây là loại bánh có nhiều lớp mỏng và nhân bánh có trộn thịt mỡ. Bánh pía do một số người Minh Hương di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang theo. Trước đây, việc làm bánh pía hoàn toàn mang tính thủ công và phục vụ cho nhu cầu của từng gia đình. Bánh pía ngày trước cũng khá đơn giản, vỏ ngoài làm bằng bột mì có nhiều lớp da mỏng bao lấy phần nhân, lớp da ngoài dày thường để in chữ, nhân làm bằng đậu xanh và mỡ heo chứ không có lòng đỏ trứng muối và các loại thành phần khác như ngày nay. Do thị hiếu của người tiêu dùng mà các lò bánh mới thêm các thành phần hương liệu khác như sầu riêng, khoai môn, lòng đỏ trứng muối… Vịt quay Bắc Kinh và vịt quay Tứ Xuyên là những món nổi tiếng của Tàu. Đặc trưng của món vịt quay là da vịt mỏng, giòn, màu vàng sậm. Tại miền Nam, vịt quay và thịt heo quay cũng được người Quảng Đông đưa vào danh sách ẩm thực. Vịt quay hoặc heo quay theo đúng kiểu Tàu là phải ăn với bánh bao chay không nhân nhưng người Việt cũng chế thêm món bánh hỏi thịt quay ăn với các loại rau, chấm nước mắm cho hợp với khẩu vị. Ngày xưa, trong Chợ Lớn, nổi tiếng về heo quay, vịt quay có khu vực đường Tôn Thọ Tường, ở Sài Gòn thì khu Chợ Cũ có vài tiệm heo quay của người Tàu. Chuyện kể có một ông cà lăm đi mua thịt quay, khi ông lắp bắp “Bán… cho tôi… 20 đồng… thịt quay…” thì Chú Ba với tay nghề chặt thịt cũng vừa chặt xong đúng 20 đồng! Hết “ăn” giờ lại sang đến “chơi”. Chuyện cờ bạc trong ngôn từ của người Sài Gòn xưa đã xuất hiện không ít những từ ngữ từ tiếng Tàu. Tài Xỉu phiên âm từ tiếng Tàu có nghĩa là Đại – Tiểu là trò chơi dân gian có từ rất lâu. Chỉ cần 1 cái đĩa, 1 cái bát và 3 hột xí ngầu cũng có thể lập sòng tài xỉu nên còn có tên là xóc đĩa. Hột xí ngầu có sáu mặt, mỗi mặt có từ một đến sáu chấm, tương đương từ một đến sáu điểm. Khi ráp sòng, người ta để cả ba hột lên chiếc đĩa sứ, chụp bát lên trên rồi lắc. Tổng số điểm của ba hột từ mười trở xuống gọi là xỉu, trên con số mười là tài. Sau khi chủ sòng lắc đĩa, người chơi đoán hoặc tài hoặc xỉu mà đặt cược. Chuyện thắng thua trong tài xỉu tùy thuộc vào tay nghề của người xóc đĩa, còn được gọi là hồ lỳ. Xác suất chủ sòng là từ 60 đến 70% thắng nhưng vì lỡ mang kiếp đỏ đen nên con bạc vẫn bị thu hút vào sòng xóc đĩa. Các loại bài và hình thức chơi bài cũng có xuất xứ từ tiếng Tàu. Binh xập xám 13 cây có những thuật ngữ như mậu binh không cần binh cũng thắng, cù lủ full house là 3 con bài cùng số và một cặp đôi, ví dụ như 3 con chín + 2 con K lớn nhất là cù lủ ách ace, nhỏ nhất dĩ nhiên là cù lủ hai, thùng flush là 5 con cùng nước suit mà không theo trật tự liền nhau, ngược lại là sảnh straight là 5 con theo trật tự liền nhau nhưng không cùng nước. Kho từ vựng trong xập xám còn có xám chi 3 con cùng loại – three of a kind, thú two hay thú phé two separate pairs là hai cặp và một con bất kỳ nào khác. “Thứ nhất tứ quý 4 con bài cùng số thứ nhì đồng hoa cùng một nước như cơ, rô, chuồn, bích” là một trong số cả rừng từ ngữ của dân binh xập xám. Ở phần trên đã bàn về hai khía cạnh “ăn” và “chơi”, còn một khía cạnh đóng vai trò không kém phần quan trọng là “làm” của người Tàu. Nghề nghiệp được xếp thấp nhất của người Tàu là nghề lạc xoong hay nói theo tiếng Việt là mua ve chai, người miền Bắc gọi là đồng nát. Chú Hỏa 1845-1901, người Phúc Kiến, xuất thân từ nghề này nhưng về sau lại là một trong 4 người giàu nhất Sài Gòn xưa “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa”. Một số người Tàu hành nghề bán chạp phô với các mặt hàng thuộc loại tả pín lù nhưng sẵn sàng đáp ứng được mọi nhu cầu hằng ngày của người lao động trong xóm. Tiệm chạp phô chỉ có mục đích lượm bạc cắc từ cây kim, sợi chỉ đến cục xà bông Cô Ba, quả trứng, thẻ đường. Người Tàu kiên trì trong công việc bán tạp hóa, ông chủ ung dung đếm tiền mỗi tối và ẩn dưới tiệm chạp phô là cả một gia tài được tích lũy. Người ta chỉ biết điều này khi có phong trào vượt biên. Tính rẻ “3 cây một người” thế mà cả gia đình chủ tiệm chạp phô vẫn thừa sức vượt biển để tìm đến bến bờ tự do. Cao cấp hơn là những xì thẩu, những người thành công trong kinh doanh. Điển hình cho giai cấp xì thẩu là Trần Thành, bang trưởng Triều Châu, với hãng bột ngọt Vị Hương Tố rồi các mặt hàng mì gói Hai Con Tôm, nước tương, tàu vị yểu đã chinh phục thị trường miền Nam từ thập niên 60 để trở thành “ông vua không ngai trong vương quốc Chợ Lớn”. Xì thẩu Lý Long Thân làm chủ 11 ngành sản xuất và dịch vụ, 23 hãng xưởng lớn hãng dệt Vinatexco, Vimytex, hãng nhuộm Vinatefinco, hãng cán sắt Vicasa, hãng dầu ăn Nakyco, hãng bánh ngọt Lubico, Ngân Hàng Nam Việt, Ngân Hàng Trung Nam, khách sạn Arc en Ciel, hãng tàu Rạng Đông… Xì thẩu Lâm Huê Hồ được nhiều người gọi là “chủ nợ của các ông chủ”. Ông là người giữ nhiều tiền mặt nhất miền Nam, số tiền ông có trong tay bằng vốn của nhiều ngân hàng tư nhân cỡ nhỏ như Nam Đô, Trung Việt gộp lại. Lâm Huê Hồ còn nổi tiếng là vua phế liệu, chuyên thầu quân cụ và võ khí phế thải rồi bán lại cho những doanh nhân trong ngành luyện cán sắt hay bán lại cho Nhật Bản. Người Sài Gòn thường nói “Trần Thành, Lý Long Thân chỉ có Tiếng nhưng Lâm Huê Hồ lại có miếng”. Xì thẩu Vương Đạo Nghĩa, chủ hãng kem đánh răng Hynos, là một người có óc làm ăn cấp tiến. Ông là người có rất nhiều sáng kiến để quảng cáo sản phẩm trên các cửa hàng ăn uống, chợ búa, hệ thống truyền thanh và truyền hình. Có rất nhiều xì thẩu được Sài Gòn xưa gọi là vua. Trương Vĩ Nhiên, “vua ciné”, là chủ hãng phim Viễn Đông và gần 20 rạp ciné tại Sài Gòn – Chợ Lớn Eden, Đại Nam, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại Quang, Palace, Thủ Đô…; Lý Hoa, “vua xăng dầu”, là đại diện độc quyền các hãng Esso, Caltex, Shell phân phối nhiên liệu cho thị trường nội địa; Đào Mậu, “vua ngân hàng”, Tổng giám đốc Trung Hoa Ngân Hàng một trong hai ngân hàng châu Á lớn nhất tại Sài Gòn cùng với Thượng Hải Ngân Hàng. Bên cạnh đó lại có Lại Kim Dung là “nữ hoàng gạo”. Giá gạo tại miền Nam là do công ty của bà ấn định, chính phủ đã có lúc phải hợp tác với “nữ hoàng gạo” để ổn định giá gạo trên thị trường. Tạ Vinh là một trường hợp xì thẩu đặc biệt. Năm 1964, Tạ Vinh bị Ủy Ban Hành Pháp Trung ương của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ xử bắn tại pháp trường cát trước chợ Bến Thành vì tội “gian thương, đầu cơ tích trữ gạo, gây xáo trộn thị trường”. Dân chúng và báo chí gọi Tạ Vinh là “hạm gạo”. theo Nguyễn Ngọc Chính– Hồi ức một đời người Nguồn bài đăng
Một thời, một nơi chốn nào đó, trong đời sống ngôn ngữ dân gian lại nảy sinh ra một số tiếng lóng, một số thành ngữ, một câu hát nhại theo câu hát chính phẩm, hầu hết là để châm biếm, tạo nên nụ cười, hay có khi là để răn đe, tìm sự hoàn thiện trong cuộc sống, chúng chỉ sống một thời rồi tự biến mất, nhường chỗ cho đoạn đời “tiếng lóng” khác đến thay thế. Do đó, việc ghi chúng lại để đọc vui chơi hay phục vụ nghiên cứu văn học dân gian, chỉ có giá trị, khi ghi rõ định vị địa lý và thời gian. Tỷ như Sài Gòn vào thập niên 60, thịnh hành tiếng lóng “sức mấy” để thay nói bất lực hay chuyện không thể. Phổ biến đến nỗi, một nhạc sĩ đã chọn làm đề tài cho một bài hát đường phố “Sức mấy mà buồn, buồn chi bỏ đi Tám”. Những câu chuyện thuộc loại tiếng lóng đó xuất hiện vào thời buổi Sài Gòn thời chiến, quê hương chiến tranh buồn phiền; “sức mấy” đã trở thành bút hiệu của một chuyên mục phiếm luận trên báo, sau đó một kỹ thuật gia sản xuất còi ôtô đã chế ra một điệu còi ôtô, bấm còi là kêu vang trên phố một dòng nhạc còi auto 9 nốt “tính tính tè tè, tè ti tè ti té”, làm cho đường phố càng náo loạn hơn. Trước đó cũng từ bài ca Diễm Xưa của Trịnh Công Sơn mà sinh ra tiếng lóng “xưa rồi Diễm ơi”, mỗi khi có ai lặp lại một đòi hỏi nào đó,mà người nghe không muốn nghe thêm nữa. Thời các vũ trường mới du nhập Sài Gòn như Mỹ Phụng, Baccara, Tháp Ngà, thì dân chơi gọi Tài-pán tức người điều phối nhóm vũ nữ, bằng tiếng bóng “Cai gà”, gọi cảnh sát là “mã tà”, vì police cảnh sát hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là matraque, đọc trại thành “mã tà”. Cũng từ thời thuộc địa, tiếng Tây chế ra tiếng lóng âm Việt rất nhiều như “gác-dang” tức thuê người làm bảo vệ; tiếng Pháp gardien đọc trại ra thành gác-dang. Cũng như nói “de cái đít” tức lùi xe arrière; tiền cho thêm người phục vụ tiếng Pháp pour-boire âm bồi gọi “tiền boa”, sau này chế ra là “tiền bo”. Vũ trường Tháp Ngà Cũng thời Pháp thuộc, Sài Gòn có nhiều cách nói mà đến nay không ai biết nguyên do. Tỷ như gọi sở bưu điện là nhà dây thép, mua tem dán bao thư gọi là “con cò”, còn nếu gọi “ông cò” là chỉ cảnh sát trưởng mấy quận ở thành phố, gọi “thầy cò” tức là các ông chữa morasse các tòa báo do chữ correcteur, nhưng nói “cò mồi” là tay môi giới chạy việc, “ăn tiền cò” thì cũng giống như “tiền bo”, nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch vụ môi giới. Thời kinh tế phát triển, đi xe auto gọi là đi “xế hộp”, đi xe ngựa gọi là đi “auto hí”, đến thời xe máy nổ ầm ào, đi xe đạp gọi là “xe điếc”, đi nghỉ mát Vũng Tàu gọi là “đi cấp”, đi khiêu vũ gọi là “đi bum”, đi tán tỉnh chị em gọi là đi “chim gái”, đi ngắm chị em trên phố gọi là “đi nghễ”, gọi chỉ vàng là “khoẻn”, gọi quần là “quởn”, gọi bộ quần áo mới là “đồ día-vía”. i chơi bài tứ sắc các bà gọi là “đi xòe”, đi đánh chắn gọi là “múa quạt”, đi chơi bài mạt chược các ông gọi là “đi thoa”, đi uống bia gọi “đi nhậu”, đi hớt tóc gọi đi “húi cua”. Có một cụm tiếng lóng từ Huế khoảng 1920 – 1950 du nhập Sài Gòn, đó là “đi đầu dầu”, tức các chàng trai ăn diện “đi nghễ” với đầu trần không mũ nón, để cái mái tóc chải dầu brillantine láng cóng, dù nắng chảy mỡ. Tuyệt vời gọi là “hết sẩy”, quê mùa chậm chạp gọi là “âm lịch”, hách dịch tự cao gọi là “chảnh”. Tiền bạc gọi là “địa”, có thời trong giới bụi đời thường kháo câu “khứa lão đa địa” có nghĩa ông khách già đó lắm tiền, không giữ lời hứa gọi là “xù”, “xù tình”, tức cặp bồ rồi tự bỏ ngang. Làm tiền ai gọi là “bắt địa”, ăn cắp là “chôm chỉa”, tương tự như “nhám tay” hay “cầm nhầm” những thứ không phải của mình. Ghé qua làng sân khấu cải lương hát bội, người Sài Gòn gọi là làng “hia mão”, có một số tiếng lóng người ngoài làng có khi nghe không hiểu. Tỷ như gọi “kép chầu”, có nghĩa là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng vì một lý do nào đó không được phân vai diễn gánh hát, đêm đêm họ cũng xách vali trang phục phấn son đến ngồi café cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ có đào kép chính nào trục trặc không đến rạp được, thì kép chầu thay thế vào ngay. “Kép chầu” phải thuần thục rất nhiều tuồng để đau đâu chữa đó. ào chính chuyên đóng vai sầu thảm gọi là “đào thương”, kép chính chuyên đóng vai hung tàn gọi là “kép độc”. Có một cụm tiếng lóng xuất phát từ hai nơi, một là cải lương rạp hát, hai là quanh các tòa soạn báo chí, đó là “café à la… ghi” tức uống café thiếu ghi sổ… Vào làng báo mà tiếng lóng người Sài Gòn xưa gọi “nhật trình”. Nếu thiếu tin lấy một tin cũ nhưng chưa đăng báo để đăng lấp chỗ trống, gọi là “tin kho tiêu”, các loại tin vớ vẩn dăm dòng từ quê ra tỉnh gọi là “tin chó cán xe”, tin quan trọng chạy tít lớn gọi là “tin vơ-đét” vedette, nhặt từ tài liệu dài ra thành một bài gọn gọi là “luộc bài”, chắp nhiều thông số khác nguồn ra một bài gọi là “xào bài”, truyện tình cảm dấm dớ gọi là “tiểu thuyết 3 xu”, các tạp chí bình dân xoi mói đời tư gọi là “báo lá cải”. Làng nhật trình kỵ nhất là loan tin thất thiệt, lóng gọi là “tin phịa”, nhưng trong “tin phịa” còn có hai mảng chấp nhận được đó là loan tin thăm dò có chủ đích, lóng gọi là “tin ballons” tức thả quả bóng thăm dò, hay tin thi đua nói dối chỉ được xuất hiện vào đầu tháng tư, gọi là “tin Cá tháng Tư”. Có đến bảy tiếng lóng để thay cho từ chết. ó là “tịch”, “hai năm mươi”, “mặc chemise gỗ”, “đi auto bươn”, “về chầu diêm chúa”, “đi buôn trái cây” hay “vào nhị tỳ”, “nhị tỳ” thay cho nghĩa địa và “số dách” thay cho số một… đều ảnh hưởng từ ngôn ngữ minh họa theo người Hoa nhập cư. Thời điểm truyện và phim kiếm hiệp của Kim Dung nói chung là chuyện Tầu thịnh hành, người Sài Gòn đã chế ra nhiều tiếng lóng, như ai dài dòng gọi là “vòng vo Tam Quốc”, ai nói chuyện phi hiện thực gọi là “chuyện Tề Thiên”, tính nóng nảy gọi là “Trương Phi”. Một số tên nhân vật điển hình của Kim Dung được dùng để chỉ tính cách của một người nào đó. Tỷ như gọi ai là “Nhạc Bất Quần” tức ám chỉ người ngụy quân tử, đạo đức giả, gọi là “oàn Chỉnh Thuần” tức ám chỉ đàn ông đa tình có nhiều vợ bé… Sài Gòn là đất của dân nhập cư tứ xứ, nơi tha hương văn hóa bốn phương, nên ngôn ngữ càng thêm phong phú, trong đó tiếng lóng cũng “ăn theo” mà ra đời. Thời Mỹ đến thì một tiếng “OK Salem”, mà các trẻ bụi đời vừa chạy vừa la để xin ông Mỹ điếu thuốc. Thời gọi súng là “sén” hay “chó lửa”, dân chơi miệt vườn gọi “công tử Bạc Liêu” còn hiểu được, Sài Gòn xuất hiện cụm từ “dân chơi cầu ba cẳng” thì thật không biết do đâu? Có lẽ cầu ba cẳng có tên Pallicao, lêu nghêu 3 cẳng cao như dáng vẻ cowboy trong các phim bắn súng, nên mới gọi “dân chơi cầu ba cẳng”? ó cũng là lúc các tiếng lóng như “dân xà bát”, “anh chị bự”, “main jouer” tay chơi ra đời, chạy xe đua gọi là “anh hùng xa lộ”, bị bắt gọi là “tó”, vào tù gọi là “xộ khám”. Bỏ học gọi là “cúp cua”, bỏ sở làm đi chơi gọi là “thợ lặn”, thi hỏng gọi là “bảng gót”. Cũng do scandal chàng nhạc sĩ nổi tiếng kia dẫn em dâu là ca sĩ qua Nhà Bè ăn chè, để ngoại tình trong túp lều cỏ bị bắt, từ đó “đi ăn chè” trở thành tiếng lóng về hành vi ngoại tình trốn ra ngoại ô. Cũng có một số tiếng lóng do nói lái mà ra như “chà đồ nhôm” tức “chôm đồ nhà”, “chai hia” tức chia hai chai bia bên bàn nhậu, nó cùng họ với “cưa đôi”. Lóng thời sự loại này có “tô ba lây đi xô xích le” tức “Tây ba lô đi xe xích lô”. Trong tiếng lóng còn chất chứa ân tình. Họa sĩ chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài lá hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than “buồn như chấu cắn”, hay có người than phiền vì câu né tránh trách nhiệm với hai tiếng “lu bu” để thất hứa, nay còn có người nhấn thêm “lu xu bu” nại lý do không rõ ràng để trốn việc. ể tạm kết thúc phần dẫn này, tôi muốn nhắc một số âm sắc Bắc Hà. Những âm sắc theo chân người Hà Nội vào Nam rồi trở thành tài sản chung của người Việt. Bắt quả tang thành “quả tó”, gọi chiếc xe Honda là “con rim”, gọi tờ giấy 100USD là “vé”, đi ăn cơm bình dân gọi là “cơm bụi”, xuống phố dạo chơi gọi là “đi bát phố”, gọi người lẩm cẩm là “dở hơi”… Nhưng lý thú nhất là nhờ cụ cố nhà văn Nguyễn Tuân mà Sài Gòn nay có một tiếng lóng hiện đại thay cho cụm từ đi ăn nhà hàng theo American style – tiền ai nấy trả. Đó là cụm lóng KAMA, ghép bốn chữ tắt của “không – ai – mời – ai”. Đi KAMA phở một cái, tức cùng đi ăn phở mà không ai mời ai, món ăn cổ truyền nhưng ứng xử là thoải mái. Vào thời văn minh hiện đại, ngôn ngữ tiếng Anh trở thành phổ biến, giới trẻ đã chế ra một tiếng khá văn hoa, như chê một ai đó chảnh, các cô nói “lemon question” tức chanh hỏi – chảnh – mở ngoặc hoặc nói chệch đi lê-mông-wét-trần!. Lê Văn Sâm
Ca DaoTàng kinh các 2022-06-03T224548-0500Ngôn ngữ Sài Gòn xưa Những vay mượn từ người TàuĐọc khoἀng 17 phύtCό thể nόi, bất kỳ một ngôn ngữ trên trάi đất này cῦng đều trἀi qua hὶnh thức vay mượn từ cάc ngôn ngữ khάc. Ảnh hưởng về vᾰn hόa là một trong những tάc động chίnh trong việc vay mượn về ngôn ngữ. Ngoài ra, cὸn phἀi kể đến cάc yếu tố khάc như địa lу́, lịch sử, chίnh trị và xᾶ hội trong việc hὶnh thành ngôn ngữ vay mượn. Miền Nam nόi chung và Sài Gὸn nόi riêng vốn là một “melting pot”, dễ dàng hὸa nhập với cάc nền vᾰn hόa khάc từ tiếng Tàu, tiếng Phάp và cuối cὺng là tiếng thể lấy bài hάt Gia tài cὐa mẹ cὐa Trịnh Công Sn để giἀi thίch sự vay mượn cὐa ngôn ngữ Việt “Một nghὶn nᾰm đô hộ giặc Tàu, một trᾰm nᾰm đô hộ giặc Tây, hai mưi nᾰm nội chiến từng ngày…” Như vậy, Việt Nam đᾶ trἀi qua ba thời kỳ ἀnh hưởng, lần lượt theo thứ tự thời gian là cὐa Tàu, sau đό đến Phάp và cuối cὺng là Mў trong những nᾰm chiến tranh gần đây hết, xin được bàn về ἀnh hưởng cὐa Trung Hoa mà ta thường gọi nôm na là Tàu cὺng những biến thể như Người Tàu, Ba Tàu, Cάc Chύ, Khάch Trύ và Chệt hoặc Chệc. Gia Định Bάo số 5, nᾰm thứ 6, phάt hành ngày 16/2/1870 giἀi thίch“…An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vὶ khάch thường đi tàu qua đây, lᾳi dὺng tàu chở đồ hàng hόa qua đây buôn bάn; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu Từ Ba-Tàu cό cάch giἀi thίch như sau Ba cό nghῖa là ba vὺng đất mà chύa Nguyễn cho phе́p người Hoa làm ᾰn và sinh sống vὺng Cὺ Lao Phố Đồng Nai, Sài Gὸn-Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ phưng tiện đi lᾳi cὐa người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu lᾳi mang nghῖa miệt thị, gây ἀnh hưởng xấu…”“…Kêu Cάc-chύ là bởi người Minh-hưng mà ra; mẹ An-nam cha Khάch nên nhὶn người Tàu là anh em, bằng không thὶ cῦng là người đồng châu với cha mὶnh, nên mới kêu là Cάc-chύ nghῖa là anh em với cha mὶnh. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy…”“…Cὸn kêu là Chệc là tᾳi tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghῖa là chύ. Người bên Tàu hay giữ phе́p, cῦng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đάng cậu, cô, chύ, bάc thὶ kêu tâng là chύ là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu cάc ἀnh là Chệc…”Cάch giἀi thίch thuật ngữ nόi trên cὐa Gia Định Bάo từ thế kỷ thứ 19 được coi là tᾳm ổn vὶ đây là một trong những tài liệu xưa cό xuất xứ từ miền Nam. Theo Lê ngọc Trụ trong Tầm nguyên Tự điển Việt Nam, chệc hay chệt là tiếng Tiều gọi chữ thύc, nghῖa là “em trai cὐa cha”. Người bὶnh dân gọi Chệc để chỉ chung người Quἀng Đông cho là gọi như thế cό у́ miệt thị, người Triều Châu trάi lᾳi, chấp nhận vὶ họ được tôn là chύ. Ở miền Nam, “cάc chύ” Quἀng làm ᾰn buôn bάn khά hn “cάc chύ chệc” người Tiều lam lῦ trong nghề làm rẫy, tằn tiện nên không biết cό phἀi vὶ vậy mới cό câuQuἀng Đông ᾰn cά bὀ đầu Tiều Châu lượm lấy đem về kho tiêu!Người Tiều lᾳi chê dân Quἀng không biết ᾰn cά. Họ nόi mόn chάo cά Tiều khi ᾰn cό vị ngọt đặc biệt nhờ chỉ rửa sᾳch bên ngoài, giữ lᾳi nguyên si vἀy, đầu và cἀ ruột! Dân Tiều ở miền Nam “chuyên trị” những mόn cά chim hấp, bὸ viên, tôm viên, ruột heo nấu cἀi chua… và nhất là mόn hὐ tίu Tiều ta cὸn dὺng cάc từ như Khựa, Xẩm, Chύ Ba… để chỉ người Tàu, cῦng với hàm у́ miệt thị, coi thường. Tuy nhiên, cό sự phân biệt rō ràng trong cάch gọi phụ nữ Tàu được gọi là thίm xẩm cὸn nam giới thὶ lᾳi là chύ 1956, chίnh phὐ Ngô Đὶnh Diệm cὐa nền Đệ nhất Cộng hὸa 1955-1963 đᾶ cό một quyết định khά tάo bᾳo, buộc tất cἀ Hoa kiều phἀi nhập quốc tịch Việt Nam, nếu không sẽ bị trục xuất. Thưng nghiệp tᾳi miền Nam sau thời Phάp thuộc phần lớn nằm trong quyền kiểm soάt cὐa Hoa kiều. Vὶ vậy, chίnh phὐ cố tᾳo sức mᾳnh cho doanh nhân Việt bằng cάch hᾳn chế quyền lợi cὐa người luật 53 cấm ngoᾳi kiều nhắm vào Hoa kiều tham gia 11 nghề liên quan đến thόc gᾳo, điền địa, buôn bάn thịt cά, than đά, dầu lửa, thu mua sắt vụn… được Chίnh phὐ Ngô Đὶnh Diệm ban hành vào thάng 9/1956. Đᾳo luật này đᾶ làm xάo trộn kinh tế trong nước nhưng đᾶ cό tάc động mᾳnh đến nền công thưng nghiệp cὐa người Việt vào thời kỳ đό. Đa số người Hoa đᾶ nhập tịch Việt, tίnh đến nᾰm 1961, trong số 1 triệu Hoa kiều ở miền Nam chỉ cὸn khoἀng người giữ lᾳi Hoa Tàu kiểm soάt gần như toàn bộ cάc vị trί kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lῖnh vực quan trọng sἀn xuất, phân phối và tίn dụng. Đến cuối nᾰm 1974, họ kiểm soάt hn 80% cάc c sở sἀn xuất cὐa cάc ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hόa chất, luyện kim, điện… và gần như đᾳt được độc quyền thưng mᾳi 100% bάn buôn, hn 50% bάn lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soάt giά cἀ thị trường. Cῦng vὶ thế, ở Sài Gὸn cό câu mỉa mai “Sống phά rối thị trường, chết chật đường chật xά” để άm chỉ người Tàu khi cὸn sống lῦng đoᾳn nền kinh tế và đến lύc chết lᾳi tổ chức những đάm ma một cάch rὶnh như người Tàu ở Hồng Kông và Macao, người Tàu ở miền Nam đa số nόi tiếng Quἀng Đông Cantonese chứ không nόi tiếng Quan Thoᾳi Mandarin mà ngày nay gọi là tiếng Phổ Thông. Cῦng vὶ thế, ngôn ngữ Sài Gὸn xưa vay mượn từ tiếng Quἀng Đông được khoἀng 71 triệu người Hoa trên khắp thế giới xử Sài Gὸn thường vί những người “ᾰn nόi không đâu vào đâu” là “nόi hoἀng, nόi tiều” thực ra là “nόi tiếng Quἀng Đông, nόi tiếng Triều Châu”. Điều này cho thấy tiếng Quἀng Đông xuất hiện rất nhiều trong ngôn ngữ miền Nam trước nᾰm 1975, kế đến mới là tiếng Triều Châu. Trên thực tế, người Tàu cό đến 5 nhόm Hoa kiều, được gọi là Ngῦ Bang tᾳi miền Nam Quἀng Đông, Triều Châu, Phύc Kiến, Hἀi Nam và Khάch Gia người Hẹ.Trong lῖnh vực ẩm thực cὐa Sài Gὸn xưa, ἀnh hưởng cὐa người Tàu gốc Quἀng Đông rất đậm nе́t. Người ta thường nόi về 4 cάi thύ “Ӑn cm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật Bἀn, đi xe Huê Kỳ”. Bên Tàu lᾳi vί von “Thực tᾳi Quἀng Châu, Y tᾳi Hàng Châu, Thύ tᾳi Tô Châu, Tử tᾳi Liễu Châu” Cm ngon ᾰn tᾳi Quἀng Châu, Áo đẹp may vἀi Hàng Châu, Vợ xinh cưới ở Tô Châu, Hὸm chết chôn không bao giờ mục ở Liễu Châu . Quἀng Châu chίnh là thὐ phὐ cὐa tỉnh Quἀng hợp у́ nghῖa cὐa hai câu nόi Việt-Trung ở trên ta cό thể kết luận ᾰn uống theo người Tàu gốc Quἀng Đông là hết xἀy hay số dzάch số một, những từ ngữ đᾶ quά phổ biến trong xᾶ hội miền Nam. Về sau, vào thời chiến tranh Việt Nam, “số dzάch” được cἀi biên theo kiểu Mў thành “nâm-bờ oᾰn” number one! Hành trὶnh cὐa ngôn ngữ xem ra rất thύ cho công bằng, bên cᾳnh số đông cάc tửu lầu, cao lâu cὐa người Tàu gốc Quἀng Đông, ở Sài Gὸn Chợ lớn cῦng cό lai rai một số tiệm Tàu khάc như tiệm Hὐ tίu Triều Châu ở đối diện Chợ Lớn Mới, Cm Gà Hἀi Nam ở Chợ An Đông hay đường Tôn Thọ Bὶnh-nguyên Lộc 1, thời tiền chiến trước 1945, cάc phổ ky trong tiệm Tàu cὸn cό kiểu kêu vào bếp những mόn ᾰn thực khάch gọi y như người ta gọi “lô-tô” bingo, dῖ nhiên bằng tiếng Quἀng Đông– Bàn số 3, bên Đông, bà lὺn, cà phê ίt sữa nhiều! – Bàn số 4, bên Đông, hὐ tίu không giά. – Bàn số 1, bên Tây, thêm bάnh bao ngọt thằng nhὀ. – Bàn số 2, bên Tây, ông già râu, cà phê đen ly lớn, xίu mᾳi tiệm thường biết rō tίnh nết và sở thίch ᾰn uống cὐa mỗi khάch quen, nên họ thường đặt cho mỗi người một cάi tên thuộc loᾳi… “hỗn danh”. Khi khάch ᾰn xong lᾳi quầy trἀ tiền thὶ phổ ky rao những câu hόm hỉnh bằng tiếng Quἀng Đông, chẳng hᾳn như– Ông đầu hόi mang khᾰn rằn, một đồng hai cắc. – Bà hai mập, ba đồng sάu cắc. – Ông chὐ ốm nόn nỉ, tάm đồng tư, hai bάnh bao mang tiếng tᾳi Sài Gὸn xưa cό cάc nhà hàng Đồng Khάnh, Arc-en-ciel sau này đổi tên là Thiên Hồng, Soάi Kὶnh Lâm, Bάt Đᾳt, Á Đông, Đᾳi La Thiên, Triều Châu… Tᾳi đây cὸn phục vụ loᾳi “ᾰn chi” theo cung cάch nhất dᾳ đế vưng. Quἀ thật người viết bài này chưa bao giờ được “làm vua một đêm” nên đoάn trong những bữa tiệc như thế phἀi cό mў nữ hầu tửu, thực đn chắc chắn phἀi cό nhiều mόn huyền thoᾳi danh bất hư truyền đi đôi với cάc thứ rượu Tàu thường được để trong những cάi thố nhὀ nên được gọi là cm thố, chỉ là cm trắng dὺng chung với cάc mόn ᾰn nhưng không nấu bằng nồi mà chỉ hấp cάch thὐy để cho chίn gᾳo. Thông thường một người ᾰn chừng một hoặc hai thố là no. Cό người lᾳi ca tụng ᾰn cm thố chỉ cần chan chύt hắc xὶ dầu nước tưng đen pha với dấm Tiều thêm chύt ớt là đᾶ thấy ngon lᾳi cῦng đύng nhưng nếu ᾰn kiểu này thὶ những tiệm nổi tiếng như Siu Siu bên hông chợ An Đông hay Siu Siu ở đầu hẻm Nguyễn Duy Dưng hὶnh như ở số nhà 61 chắc đᾶ dẹp tiệm từ lâu rồi! Hὶnh dưới đây là những thố cm chụp tᾳi Quάn Chuyên Kу́ trong khu Chợ Cῦ đường Tôn Thất Đᾳm. Những thố cm ngày xưa nhὀ hn nhiều, ngày nay tiệm dὺng những cάi thố quά lớn, không lẽ bao tử cὐa thực khάch ngày nay lớn hn ngày xưa?.Cm chiên Dưng Châu cῦng là mόn ᾰn du nhập từ Quἀng Đông. Nhiều người rất khoάi cm chiên nhưng ίt người biết từ khởi thὐy đây chỉ là mόn tổng hợp cάc thức ᾰn dư thừa được chế biến lᾳi. Này nhе́, cm vốn là “cm nguội” nấu dư từ hôm trước, cάc phụ gia khάc như jambon, trứng trάng, đậu Hὸa lan, hành lά… cὸn dư được xắt lάt rồi trộn với cm mà chiên lên!Cῦng thuộc loᾳi thức ᾰn dư thừa cό mόn tài pάo bάnh bao. Ban không tin ư? Nhân bάnh bao là thịt vụn được xào lên, trộn với lᾳp xưởng và trứng sau này được thay bằng trứng cύt kể từ khi dịch cύt lan truyền khắp Sài Gὸn, nhà nhà nuôi cύt, người người ᾰn trứng cύt. Vὀ bάnh bao được làm bằng bột mὶ, sau khi hấp chίn bột nở phὶnh ra trông thật hấp người bἀo cm chiên Dưng Châu và bάnh bao thể hiện tίnh tằn tiện và tiết kiệm cὐa người Tàu, không bὀ phί thức ᾰn thừa! Nόi cho vui vậy thôi chứ từ cm chiên, bάnh bao đến cάc loᾳi sn hào hἀi vị như bào ngư, vi cά, yến sào… đều đὸi hὀi cάch chế biến, đό là nghệ thuật nấu tiệm “cà phê hὐ tiếu” cὐa Tàu lan rộng ra nhiều ni chứ không riêng gὶ trong Chợ Lớn. Khắp Sài Gὸn, Gia Định rồi xuống đến Lục Tỉnh đi đâu cῦng thấy những xe mὶ, xe hὐ tiếu, chỉ nhὶn cάch trang trί cῦng cό thể biết được chὐ nhân là người Tàu. Họ cό kiểu cάch riêng biệt với những chiếc xe bằng gỗ, thiết kế một cάch cầu kỳ. Phần trên xe là những tấm kίnh trάng thὐy cό vẽ hὶnh cάc nhân vật như Quan Công, Lưu Bị, Trưng Phi, Triệu Tử Long… trong truyện Tam điểm tâm thὶ cό mὶ, hὐ tίu, bάnh bao, hά cἀo, xίu mᾳi… Khάch thường gọi một ly xây chừng, đό là một ly cà phê đen nhὀ hay tài phế cà phê đen lớn. Cà phê ngày xưa cὸn cό tên “cά phе́ vớ dzớ”, pha bằng chiếc vợt vἀi nên cὸn được gọi là “cà phê vợt” tựa như chiếc vớ bίt tất. Cà phê đựng trong “dzớ” phἀi được đun nόng trong siêu nên cὸn cό tên là “cà phê kho”, cό điều “kho” nước đầu thὶ cό mὺi cà phê nhưng những nước sau cό vị như… thuốc hn thὶ gọi phе́ nᾳi cà phê sữa hoặc bᾳt sửu nhiều sữa nhưng ίt cà phê với sữa đặc cό đường hiệu Ông Thọ 2 hoặc Con Chim 3. Cό người lᾳi dὺng bάnh tiêu hoặc dầu-cha-quẩy người miền Bắc gọi là quẩy nhύng vào cà phê để ᾰn thay cho cάc mόn điểm tâm đắt bὶnh dân cὸn cό lối uống cà phê trên đῖa. Mỗi tάch cà phê thường được để trên một chiếc đῖa nhὀ, khάch “sành điệu” đổ cà phê ra đῖa, đốt điếu thuốc Melia chờ cà phê nguội rồi cầm đῖa lên… hύp. Nhà vᾰn Bὶnh-nguyên Lộc trong Hồn Ma Cῦ mô tἀ cάch uống cà phê cὐa người xưa “… Người cha đứa bе́ rόt cà phê ra dῖa cho mau nguội, rồi nâng dῖa lên mà uống”. Đây là cάch uống cὐa một số người Sài Gὸn vào những thập niên 50-60, đa số họ là những người lớn tuổi, “hoài cổ” nên vẫn duy trὶ cάch uống đặc trưng cὐa Sài Gὸn một quάn nước bὶnh dân trong Chợ Lớn ta cό thể gọi một ly suỵt xὐi và người phục vụ đem ra một ly đά chanh mάt lᾳnh. Cό người gọi nước đά chanh là “bất hiếu tử” vὶ dάm cἀ gan “đάnh cha” nhưng nόi lάi lᾳi là… đά chanh! Tᾳi cάc tiệm “cà phê hὐ tiếu” luôn luôn cό bὶnh trà để khάch cό thể nhâm nhi nhậm xà uống trà trước khi gọi phổ ky đến để thἀy xu tίnh tiền. Nhậm xà cὸn cό nghῖa là tiền hối lộ, tiền trà nước. Người sành điệu cὸn “xổ” một tràng “broken Cantonese” “Hầm bà làng kỵ tố?” Hết thἀy bao nhiêu tiền?.Những từ ngữ vay mượn cὐa người Tàu dὺng lâu hόa quen nên cό nhiều người không ngờ mὶnh đᾶ sử dụng ngôn ngữ ngoᾳi lai. Chẳng hᾳn như ta thường lὶ xὶ cho con chάu vào dịp Tết hoặc lὶ xὶ cho thầy chύ cἀnh sάt để trάnh phiền nhiễu, cῦng là một hὶnh thức hối xưởng người miền Bắc gọi là Lᾳp xường là một mόn ᾰn cό nguồn gốc từ bên Tàu, tiếng Quἀng Châu là lᾳp trường ngày lễ Tất niên và ruột heo khô. Cῦng vὶ thế vào dịp giάp Tết cάc cửa hàng nổi tiếng như Đồng Khάnh, Đông Hưng Viên trưng bày la liệt cάc loᾳi lᾳp xưởng, nào là lᾳp xưởng mai quế lộ, lᾳp xưởng khô, lᾳp xưởng tưi…Chế biến lᾳp xưởng là nghề cὐa cάc Chύ Ba trong Chợ Lớn. Lᾳp xưởng được làm từ thịt heo nᾳc và mỡ, xay nhuyễn, trộn với rượu, đường rồi nhồi vào ruột heo khô để chίn bằng cάch lên men tự nhiên. Lᾳp xưởng màu hồng hoặc nâu sậm vὶ chắc hẳn cό thêm chύt bột xưởng ở Sόc Trᾰng thuộc miền Lục tỉnh cῦng rất nổi tiếng cὺng với mόn bάnh pίa, một mόn đặc biệt cὐa người Tiều gốc từ Triều Châu. Đôi khi bάnh pίa cὸn được gọi là bάnh lột da, thực chất cό nguồn gốc từ bάnh trung thu theo kiểu Tô Châu nhưng khάc với loᾳi bάnh trung thu mà ta thường thấy. Đây là loᾳi bάnh cό nhiều lớp mὀng và nhân bάnh cό trộn thịt pίa do một số người Minh Hưng di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang theo. Trước đây, việc làm bάnh pίa hoàn toàn mang tίnh thὐ công và phục vụ cho nhu cầu cὐa từng gia đὶnh. Bάnh pίa ngày trước cῦng khά đn giἀn, vὀ ngoài làm bằng bột mὶ cό nhiều lớp da mὀng bao lấy phần nhân, lớp da ngoài dày thường để in chữ, nhân làm bằng đậu xanh và mỡ heo chứ không cό lὸng đὀ trứng muối và cάc loᾳi thành phần khάc như ngày thị hiếu cὐa người tiêu dὺng mà cάc lὸ bάnh mới thêm cάc thành phần hưng liệu khάc như sầu riêng, khoai môn, lὸng đὀ trứng muối… Tᾳi Sόc Trᾰng hiện cό gần 50 lὸ chuyên sἀn xuất bάnh pίa. Tuy nhiên, số lὸ bάnh và cửa hàng buôn bάn tập trung đông nhất tᾳi thị tứ Vῦng Thm xᾶ Phύ Tâm, huyện Mў Tύ, tỉnh Sόc Trᾰng ni được xem là khởi thὐy cὐa làng nghề bάnh quay Bắc Kinh và vịt quay Tứ Xuyên là những mόn “đặc sἀn” nổi tiếng cὐa Tàu. Đặc trưng cὐa mόn vịt quay là da vịt mὀng, giὸn, màu vàng sậm. Tᾳi miền Nam, vịt quay và thịt heo quay cῦng được người Quἀng Đông đưa vào danh sάch ẩm thực. Bί quyết gia truyền cὐa cάc mόn này là ướp ngῦ vị hưng rồi quay sao cho da giὸn tan trong khi phần thịt vừa mềm lᾳi vừa quay hoặc heo quay theo đύng kiểu Tàu là phἀi ᾰn với bάnh bao chay không nhân nhưng người Việt cῦng chế thêm mόn bάnh hὀi thịt quay ᾰn với cάc loᾳi rau, chấm nước mắm cho hợp với khẩu vị. Ngày xưa, trong Chợ Lớn, nổi tiếng về heo quay, vịt quay cό khu vực đường Tôn Thọ Tường, ở Sài Gὸn thὶ khu Chợ Cῦ cό vài tiệm heo quay cὐa người Tàu. Chuyện kể cό một ông cà lᾰm đi mua thịt quay, khi ông lắp bắp “Bάn… cho tôi… 20 đồng… thịt quay…” thὶ Chύ Ba với tay nghề chặt thịt cῦng vừa chặt xong đύng 20 đồng!Hết “ᾰn” giờ lᾳi sang đến “chi” trong ngôn ngữ vay mượn cὐa người Tàu. Chuyện cờ bᾳc trong ngôn từ cὐa người Sài Gὸn xưa đᾶ xuất hiện không ίt những từ ngữ từ tiếng Tàu. Tài Xỉu phiên âm từ tiếng Tàu cό nghῖa là Đᾳi – Tiểu là trὸ chi dân gian cό từ rất lâu. Chỉ cần 1 cάi đῖa, 1 cάi bάt và 3 hᾳt xί ngầu cῦng cό thể lập sὸng tài xỉu nên cὸn cό tên là sόc xί ngầu cό sάu mặt, mỗi mặt cό từ một đến sάu chấm, tưng đưng từ một đến sάu điểm. Khi rάp sὸng, người ta để cἀ ba hột lên chiếc đῖa sứ, chụp bάt lên trên rồi lắc. Tổng số điểm cὐa ba hột từ mười trở xuống gọi là xỉu, trên con số mười là tài. Sau khi chὐ sὸng lắc đῖa, người chi đoάn hoặc tài hoặc xỉu mà đặt cược. Chuyện thắng thua trong tài xỉu tὺy thuộc vào tay nghề cὐa người xόc đῖa, cὸn được gọi là hồ lỳ. Xάc suất chὐ sὸng là từ 60 đến 70% thắng nhưng vὶ lỡ mang kiếp đὀ đen nên con bᾳc vẫn bị thu hύt vào sὸng xόc loᾳi bài và hὶnh thức chi bài cῦng cό xuất xứ từ tiếng Tàu. Binh xập xάm 13 cây cό những thuật ngữ như mậu binh không cần binh cῦng thắng, cὺ lὐ full house là 3 con bài cὺng số và một cặp đôi, vί dụ như 3 con chίn và 2 con K lớn nhất là cὺ lὐ άch ace, nhὀ nhất dῖ nhiên là cὺ lὐ hai, thὺng flush là 5 con cὺng nước suit mà không theo trật tự liền nhau, ngược lᾳi là sἀnh straight là 5 con theo trật tự liền nhau nhưng không cὺng nước. Kho từ vựng trong xập xάm cὸn cό xάm chi 3 con cὺng loᾳi – three of a kind, thύ two hay thύ phе́ two separate pairs là 2 cặp và 1 con bất kὶ nào khάc. “Thứ nhất tứ quу́ 4 con bài cὺng số thứ nhὶ đồng hoa cὺng một nước như c, rô, chuồn, bίch” là một trong số cἀ rừng từ ngữ cὐa dân binh xập phần trên đᾶ bàn về hai khίa cᾳnh “ᾰn” và “chi”, cὸn một khίa cᾳnh đόng vai trὸ không kе́m phần quan trọng là “làm” cὐa người Tàu. Nghề nghiệp được xếp thấp nhất cὐa người Tàu là nghề lᾳc xoong hay nόi theo tiếng Việt là mua ve chai, người miền Bắc gọi là đồng Hὀa 1845-1901, người Phύc Kiến, xuất thân từ nghề này nhưng về sau lᾳi là một trong 4 người giàu nhất Sài Gὸn xưa “Nhất Sў, nhὶ Phưng, tam Xường, tứ Hὀa”. Bốn triệu phύ ngày xưa gồm cάc ông Huyện Sў Lê Phάt Đᾳt, Tổng đốc Phưng Đỗ Hữu Phưng, Bά hộ Xường Lу́ Tường Quan và Chύ Hὀa Hui Bon Hoa hay Hứa Bổn Hὸa.Một số người Tàu hành nghề bάn chᾳp phô với cάc mặt hàng thuộc loᾳi tἀ pίn lὺ nhưng sẵn sàng đάp ứng được mọi nhu cầu hàng ngày cὐa người lao động trong xόm. Tiệm chᾳp phô chỉ cό mục đίch lượm bᾳc cắc từ cây kim, sợi chỉ đến cục xà bông Cô Ba, quἀ trứng, thẻ đường. Người Tàu kiên trὶ trong công việc bάn tᾳp hόa, ông chὐ ung dung đếm tiền mỗi tối và ẩn dưới tiệm chᾳp phô là cἀ một gia tài được tίch lῦy. Người ta chỉ phάt hiện điều này khi cό phong trào vượt biên. Tίnh rẻ “3 cây một người” thế mà cἀ gia đὶnh chὐ tiệm chᾳp phô vẫn thừa sức vượt biển để tὶm đến bến bờ tự cấp hn là những xὶ thẩu, những người thành công trong kinh doanh mà ngày nay ta gọi là đᾳi gia. Điển hὶnh cho giai cấp xὶ thẩu là Trần Thành, bang trưởng Triều Châu, với hᾶng bột ngọt Vị Hưng Tố rồi cάc mặt hàng mὶ gόi Hai Con Tôm, nước tưng, tàu vị yểu đᾶ chinh phục thị trường miền Nam từ thập niên 60 để trở thành “ông vua không ngai trong vưng quốc Chợ Lớn”.Xὶ thẩu Lу́ Long Thân làm chὐ 11 ngành sἀn xuất và dịch vụ, 23 hᾶng xưởng lớn hᾶng dệt Vinatexco, Vimytex, hᾶng nhuộm Vinatefinco, hᾶng cάn sắt Vicasa, hᾶng dầu ᾰn Nakyco, hᾶng bάnh ngọt Lubico, Ngân Hàng Nam Việt, Ngân Hàng Trung Nam, khάch sᾳn Arc en Ciel, hᾶng tàu Rᾳng Đông…Xὶ thẩu Lâm Huê Hồ được nhiều người gọi là “chὐ nợ cὐa cάc ông chὐ”. Ông là người giữ nhiều tiền mặt nhất miền Nam, số tiền ông cό trong tay bằng vốn cὐa nhiều ngân hàng tư nhân cỡ nhὀ như Nam Đô, Trung Việt gộp lᾳi. Lâm Huê Hồ cὸn nổi tiếng là vua phế liệu, chuyên thầu quân cụ và vō khί phế thἀi rồi bάn lᾳi cho những doanh nhân trong ngành luyện cάn sắt hay bάn lᾳi cho Nhật Bἀn. Người Sài Gὸn thường nόi “Trần Thành, Lу́ Long Thân chỉ cό Tiếng nhưng Lâm Huê Hồ lᾳi cό Miếng”.Xὶ thẩu Vưng Đᾳo Nghῖa, chὐ hᾶng kem Hynos, là một người cό όc làm ᾰn cấp tiến. Ông là người cό rất nhiều sάng kiến để quἀng cάo sἀn phẩm trên cάc cửa hàng ᾰn uống, chợ bύa, hệ thống truyền thanh và truyền hὶnh. Ông cῦng là người đầu tiên biết vận dụng phim vō hiệp và tὶnh bάo kiểu Hồng Kông vào quἀng cάo. Người dân miền Nam không thể quên hὶnh ἀnh tài tử Vưng Vῦ giἀi thoάt cάc xe hàng do đoàn bἀo tiêu hộ tống thoάt khὀi quân cướp mở thὺng ra chỉ toàn kem đάnh rᾰng Hynos!Cό rất nhiều xὶ thẩu được Sài Gὸn xưa phong tặng danh hiệu Vua. Trưng Vῖ Nhiên, “vua cinе́”, là chὐ hᾶng phim Viễn Đông và gần 20 rᾳp cinе́ tᾳi Sài Gὸn – Chợ Lớn Eden, Đᾳi Nam, Opе́ra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đᾳi Quang, Palace, Thὐ Đô…; Lу́ Hoa, “vua xᾰng dầu”, là đᾳi diện độc quyền cάc hᾶng Esso, Caltex, Shell phân phối nhiên liệu cho thị trường nội địa; Đào Mậu, “vua ngân hàng”, Tổng giάm đốc Trung Hoa Ngân Hàng một trong hai ngân hàng châu Á lớn nhất tᾳi Sài Gὸn cὺng với Thượng Hἀi Ngân Hàng.Bên cᾳnh đό lᾳi cό Lᾳi Kim Dung là “nữ hoàng gᾳo”. Giά gᾳo tᾳi miền Nam là do công ty cὐa bà ấn định, chίnh phὐ đᾶ cό lύc phἀi hợp tάc với “nữ hoàng gᾳo” để ổn định giά gᾳo trên thị trường. Trong cάc buổi tiếp tân lớn, bà Kim Dung luôn xuất hiện bên cᾳnh cάc mệnh phụ phu Vinh là một trường hợp xὶ thẩu đặc biệt. Nᾰm 1964, Tᾳ Vinh bị Ủy Ban Hành Phάp Trung ưng cὐa Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ xử bắn tᾳi phάp trường cάt trước chợ Bến Thành vὶ tội “gian thưng, đầu c tίch trữ gᾳo, gây xάo trộn thị trường”. Dân chύng và bάo chί gọi Tᾳ Vinh là “hᾳm gᾳo”. Ông Kỳ muốn cἀnh cάo giới tài phiệt gốc Hoa không nên quά lᾳm dụng tὶnh trᾳng chiến tranh để làm giàu phi phάp, ông đᾶ tổ chức một cuộc họp kίn gồm đὐ thành phần đᾳi xὶ thẩu tᾳi Sài Gὸn-Chợ Lớn để cἀnh cάo.
ngôn ngữ sài gòn xưa